SKKN Kinh nghiệm dạy giờ luyện tập toán nhằm nâng cao chất lượng cho học sinh lớp 6 sách Kết nối tri thức
- Mã tài liệu: MT6006 Copy
Môn: | Toán |
Lớp: | Lớp 6 |
Bộ sách: | Kết nối tri thức |
Lượt xem: | 221 |
Lượt tải: | 3 |
Số trang: | 23 |
Tác giả: | Lê Thị Hồng Dung |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | THCS Vân Đồn |
Năm viết: | 2021-2022 |
Số trang: | 23 |
Tác giả: | Lê Thị Hồng Dung |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | THCS Vân Đồn |
Năm viết: | 2021-2022 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Kinh nghiệm dạy giờ luyện tập toán nhằm nâng cao chất lượng cho học sinh lớp 6 sách Kết nối tri thức ” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
1) Bám sát tư tưởng chủ đạo là hoàn thiện hệ thống kiến thức, rèn luyện kỹ năng, thuật toán, rèn luyện nề nếp học tập.
2) Tích cực hóa hoạt động tự luyện tập của học sinh từ khâu chuẩn bị ở nhà
3) Lựa chọn một số bài tập có cách giải quyết đơn giản hơn là áp dụng quy tắc tổng quát đã học
4) Khuyến khích học sinh tìm nhiều lời giải khác nhau của một bài toán
5) Rèn luyện cho học sinh khả năng chuyển từ tư duy thuận sang tư duy nghịch
6) Tổ chức các trò chơi giữa các nhóm học tập bằng nhiều hình thức phong phú
7) Chú trọng rèn luyện kỹ năng sử dụng máy tính bỏ túi ở học sinh để giảm nhẹ những khâu tính toán không cần thiết.
Mô tả sản phẩm
I – CƠ SỞ CHỌN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận
Trong chương trình THCS, toán học chiếm một vai trò rất quan trọng. Với đặc thù là môn khoa học tự nhiên toán học gây nhiều hứng thú cho học sinh, toán không chỉ giúp học sinh phát triển tư duy, óc sáng tạo, khả năng tìm tòi và khám phá tri thức, vận dụng những hiểu biết của mình vào trong thực tế cuộc sống. Mà toán học còn là công cụ giúp các em học tốt các môn học khác và góp phần giúp các em phát triển một cách toàn diện. Một nhà toán học và nhà sư phạm đã nói “ Toán học được xem là môn khoa học chứng minh.” Muốn vậy người học phải nắm vững kiến thức toán học từ thấp đến cao, phải học toán thường xuyên, liên tục, phải tự tiếp thu kiến thức qua hoạt động học tập tích cực của bản thân.
Từ vai trò quan trọng đó mà việc giúp các em yêu thích, say mê học toán, giúp các em học sinh khá giỏi có điều kiện mở rộng, nâng cao kiến thức cũng như kèm cặp, phụ đạo cho học sinh yếu kém môn toán là yêu cầu tất yếu đối với giáo viên dạy toán nói chung. Nhất là đất nước ta đang trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa, rất cần những con người năng động, sáng tạo có hiểu biết sâu và rộng…Chính vì vậy mà việc bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho học sinh trong mọi tiết dạy học toán, nhất là những tiết luyện tập, củng cố kiến thức là rất cần thiết. Để đáp ứng được những yêu cầu trên, đòi hỏi bản thân người giáo viên dạy toán phải tìm tòi, nghiên cứu, đổi mới “Phương pháp dạy tiết luyện tập toán” góp phần vào việc “Dạy cho trí thông minh của các em hoạt động và phát triển” (Phạm Văn Đồng )
2. Cơ sở thực tiễn:
Hướng đổi mới phương pháp dạy học toán học hiện nay là tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, khơi dậy và phát triển khả năng tự học, nhằm hình thành ở học sinh tư duy tích cực, độc lập, sáng tạo, nâng cao năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Sách giáo khoa toán mới không quá coi trọng tính cấu trúc, tính chính xác của hệ thống kiến thức toán học trong chương trình. Hạn chế đưa vào chương trình những kết quả có tính lý thuyết thuần túy và các phép chứng minh dài dòng, phức tạp không phù hợp với đại đa số học sinh. Tăng tính thực tiễn và tính sư phạm, tạo điều kiện để học sinh được tăng cường luyện tập thực hành, rèn luyện kỹ năng tính toán và vận dụng các kiến thức toán học vào đời sống và các môn học khác Do đó, số tiết dành cho luyện tập khá nhiều. Nhưng tiết luyện tập không đơn thuần là tiết để chữa bài tập ra về cho học sinh, làm như vậy tiết luyện tập đem lại sự buồn tẻ, học sinh không có hứng thú học bài, đem lại sự nhàm chán cho bản thân giáo viên và học sinh. Để tiết luyện tập có hiệu quả: Học sinh giỏi được củng cố, nâng cao kiến thức, học sinh yếu, trung bình được khắc sâu kiến thức và có thể tự mình làm được những bài tập trong sách giáo khoa và những bài với yêu cầu cao hơn. Sau tiết luyện tập kiến thức cũ được cô đọng, khắc sâu cho học sinh để các em vững vàng học những tiết học sau, tiếp thu những kiến thức mới đó là điều mà không phải giáo viên nào cũng làm được.
Bản thân tôi là giáo viên toán đã có hơn 20 năm gắn bó với nghề tôi quan niệm quá trình học tập không chỉ là quá trình lĩnh hội các kiến thức có sẵn, mà còn là quá trình học sinh tự khám phá, tự phát hiện, tự tìm tòi đến với kiến thức mới nhờ sự học hỏi hướng dẫn giúp đỡ và tổ chức của giáo viên. Tôi thấy mình cần phải tìm ra một phương pháp dạy tiết luyện tập toán để giúp các em học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.
Để đáp ứng được những yêu cầu trên, đòi hỏi bản thân người giáo viên dạy toán phải tìm tòi nghiên cứu, đổi mới phương pháp dạy học nhằm đưa chất lượng giờ học toán của học sinh được nâng lên. Năm học …………….tôi được nhà trường phân công dạy toán hai lớp 6C và 6D của trường THCS ……… với trăn trở trên và với mong muốn nâng cao chất lượng dạy học toán ở trường THCS và qua thực tế giảng dạy tôi đã tìm tòi và áp dụng một số giải pháp thành công đối với giờ luyện tập toán. Qua kinh nghiệm của bản thân tôi đã đúc kết được một đề tài, đó là “ SKKN Kinh nghiệm dạy giờ luyện tập toán nhằm nâng cao chất lượng cho học sinh lớp 6 sách Kết nối tri thức với cuộc sống” đưa vào dạy ở lớp 6C.
II – THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
Trong thực tế quá trình dạy tiết luyện tập giáo viên thường máy móc, cứng nhắc không quan tâm đến tính chất và yêu cầu cụ thể của từng tiết luyện tập. Tiết luyện tập thường diễn ra theo trình tự giáo viên kiểm tra lý thuyết rồi chữa các bài tập đã được giao về nhà cho học sinh. Cứ rập khuôn như vậy nên đến tiết luyện tập học sinh đã nắm được trình tự của tiết học gây nhàm chán, giờ học buồn tẻ, không thu hút, học sinh mất dần hứng thú đối với giờ luyện tập toán, máy móc trong việc phát hiện và giải quyết vấn đề nảy sinh trong bài tập. Học sinh hạn chế khả năng sử dụng ngôn ngữ chính xác, các phẩm chất của tư duy linh hoạt, độc lập sáng tạo không được phát triển. Dẫn đến học sinh có thói quen ỷ lại, không mạnh dạn trình bày ý tưởng của mình, không nhanh nhẹn, sáng tạo trong các tình huống nảy sinh khi giải quyết các bài tập. Mặt khác sách giáo khoa rất quan tâm đến việc hướng dẫn học sinh sử dụng máy tính bỏ túi để làm các phép tính một cách nhanh chóng và thuận tiện. Nếu trong các tiết luyện tập giáo viên không quan tâm đến việc này thì học sinh sẽ không biết sử dụng thành thạo máy tính bỏ túi để tính. Chính vì vậy, rất cần một quá trình lao động sư phạm tích cực và sáng tạo của giáo viên, nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng các tiết luyện tập toán theo hướng đổi mới phương pháp dạy học.
B – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I – Các giải pháp
Để học sinh yêu thích học tiết luyện tập toán, không cảm thấy nhàm chán, rập khuôn giáo viên cần phải:
– Chuẩn bị dạy một tiết luyện tập toán cần bám sát tư tưởng chủ đạo là hoàn thiện ở mức độ cho phép học sinh hệ thống kiến thức, rèn luyện kỹ năng, thuật toán, rèn luyện nề nếp học.
– Tích cực hóa hoạt động tự luyện tập của học sinh từ khâu chuẩn bị ở nhà .
– Hoàn thiện, nâng cao (ở mức độ cho phép của chương trình ) lý thuyết qua hệ thống bài tập.
– Khi luyện tập cho học sinh áp dụng thành thạo một quy tắc, công thức nào đó cần lựa chọn một số bài tập có cách giải quyết riêng, đơn giản hơn là áp dụng quy tắc tổng quát đã học.
– Rèn luyện kỹ năng, thuật toán, nguyên tắc giải toán (tuỳ từng bài cụ thể).
– Quan tâm rèn luyện cho học sinh khả năng chuyển dễ dàng nhanh chóng từ tư duy thuận sang tư duy nghịch để học sinh nắm vững hơn nội dung kiến thức đã học.
– Khuyến khích học sinh tìm nhiều lời giải khác nhau của một bài toán.
– Tổ chức trò chơi giữa các tổ, nhóm học tập bằng nhiều hình thức phong phú, góp phần tăng hứng thú học toán.
– Rèn luyện nề nếp học tập có tính khoa học, rèn luyện các thao tác tư duy, phương pháp học tập chủ động tích cực, sáng tạo.
– Tham gia học chuyên đề môn toán do sở và phòng giáo dục tổ chức.
– Thường xuyên tham gia dự giờ, thăm lớp của đồng nghiệp để học hỏi kinh nghiệm.
– Tham khảo các tài liệu, tạp chí viết về đổi mới phương pháp dạy học để học hỏi như: “thiết kế bài giảng”, “sách giáo viên” , “sách bài tập”, “tạp chí giáo dục ” …
II – Các phương án thực hiện
Phương án 1
Bước 1: Nhắc lại một cách có hệ thống các nội dung lý thuyết đã học, sau đó có thể mở rộng phần lý thuyết ở mức độ phổ thông cho phép, thông qua phần kiểm tra miệng ở đầu tiết.
Bước 2: Cho học sinh trình bày lời giải một số bài tập đã làm ở nhà mà giáo viên quy định, nhằm kiểm tra sự vận dụng lý thuyết trong việc giải toán của học sinh, kiểm tra kỹ năng tính toán, cách diễn đạt bằng lời và cách trình bày lời giải bài toán của học sinh. Giáo viên chốt lại những vấn đề có tính chất giáo dục (phân tích một cách đúng, sai ở từng bài, nêu ra cách giải thông minh, ngắn gọn … ).
Bước 3: Cho học sinh làm một số bài tập mới theo chủ định của giáo viên, nhằm kiểm tra ngay sự hiểu biết của học sinh hoặc rèn luyện một kỹ năng, một thuật toán nào đó.
Phương án 2
Bước 1: Cho học sinh trình bày lời giải một số bài tập cũ mà học sinh đã được chuẩn bị ở nhà để kiểm tra học sinh hiểu lý thuyết đến đâu? Kỹ năng vận dụng lý thuyết trong việc giải các bài toán như thế nào? Học sinh thường mắc sai sót ở đâu?.
Bước 2: Sau khi nắm được các thông tin qua bước 1 giáo viên cần phải chốt lại các vấn đề có tính chất trọng tâm:
– Nhắc lại một số vấn đề lý thuyết mà học sinh chưa hiểu hoặc chưa hiểu sâu, không vận dụng tốt vào việc giải toán.
– Chỉ ra các sai sót của học sinh thường mắc phải và phương hướng khắc phục các sai sót.
– Hướng dẫn học sinh cách trình bày, diễn đạt lời nói bằng ngôn ngữ toán học.
Bước 3: Cho học sinh làm một số bài tập mới, nhằm kiểm tra ngay sự hiểu biết của học sinh về lý thuyết hoặc rèn luyện một số kỹ năng, thuật toán nào đó mà giáo viên vừa bổ sung ở phần trên.
Việc lựa chọn phương án nào, tuỳ thuộc vào tính chất và yêu cầu cụ thể của tiết luyện tập, giáo viên không nên cứng nhắc.
III – Tổ chức thực hiện
1) Bám sát tư tưởng chủ đạo là hoàn thiện hệ thống kiến thức, rèn luyện kỹ năng, thuật toán, rèn luyện nề nếp học tập.
Việc chuẩn bị dạy tiết luyện tập, điều quan trọng là phải bám sát tư tưởng chủ đạo là hoàn thiện hệ thống kiến thức (ở mức độ cho phép ), rèn luyện kỹ năng, thuật toán, rèn luyện nề nếp học tập.
Để đảm bảo phát huy tối đa hoạt động của giáo viên và học sinh, tránh sự đơn điệu thụ động như các tiết luyện tập toán trước đây. Giáo viên cần tìm tòi, thiết kế hệ thống các câu hỏi, kèm theo bài tập để kiểm tra nhận thức của học sinh, tạo tình huống mới về kiến thức đã học, kích thích hứng thú học tập của học sinh. Hệ thống các câu hỏi, bài tập đó gắn với các biện pháp kỹ thuật của người giáo viên làm cho tiết học sinh động hơn, làm cho học sinh nắm kiến thức sâu sắc hơn.
Ví dụ Bài “Luyện tập chung” Toán 6 (trang 25 tập 2 sách Kết nối tri thức với cuộc sống)
(Sau tiết học về Tính chất cơ bản của phép nhân phân số )
Mục tiêu của tiết này là:
Kiến thức: Củng cố và khắc sâu phép nhân phân số, các tính chất cơ bản của phép nhân phân số.
Kỹ năng: Vận dụng linh hoạt các kiến thức đã học về phép nhân phân số và các tính chất cơ bản của phép nhân phân số để giải toán.
Thái độ: Giáo dục sự yêu thích môn toán, học tập gương nhà toán học Việt Nam. Vì vậy, giáo viên có thể tiến hành theo trình tự sau:
Bước 1: – Giáo viên yêu cầu học sinh làm bài tập giao về nhà để kiểm tra sự vận dụng lý thuyết vào làm bài tập của học sinh (bài 6.21 trang 18 sách Kết nối tri thức với cuộc sống tập 2)
(Đề bài ghi trên bảng phụ) và cho học sinh lên điền vào ô trống
x | -113 | -38 | ||
913 | 813 | |||
512 |
– HS lên bảng điền vào 3 ô ở hàng ngang thứ 1
Giáo viên từ kết quả của 3 ô ở hàng ngang thứ nhất ta điền được ngay ô nào ? Vì sao?
Từ đó rút ra được tính chất gì của phép nhân phân số?
Giáo viên: nêu tính chất giao hoán
Bước 2: Nắm được sự tiếp thu kiến thức của học sinh thông qua bước 1, giáo viên chốt lại các vấn đề sau: Với mỗi bài tập, có thể có nhiều cách giải khác nhau, vì vậy cần quan sát kỹ các phân số (trong bảng hay biểu thức có quan hệ với nhau như thế nào ) rồi suy nghĩ, tính nhẩm sẽ tìm được cách giải hợp lý nhất. Do đó, trong học tập cũng như trong cuộc sống, ta luôn tìm cách giải quyết công việc một cách hợp lý.
Bước 3: Giáo viên tiến hành cho học sinh làm một số bài tập mới để rèn luyện tính thông minh.
Bài tập: Tính giá trị của biểu thức sau (bằng hai cách ) (bài 6.39 trang 26 tập 2 sách Kết nối tri thức với cuộc sống)
B = 513.815+513.2615–513.815
Giáo viên : Bài tập có mấy cách làm ? Em chọn cách nào? Vì sao?
Học sinh : Có hai cách làm
Cách 1: Thực hiện phép tính theo thứ tự tính toán.
Cách 2: Sử dụng tính chất phân phối của phép nhân đối với phép cộng.
Giáo viên : Ta thấy 513 là phân số chung , khi đó nếu sử dụng tính chất phân phối của phép nhân đối với phép cộng để tính thì bài toán trở nên đơn giản hơn.
Trong sách toán 6 sách Kết nối tri thức với cuộc sống còn có rất nhiều bài tập để phát hiện học sinh khá giỏi, ở tiết luyện tập này nếu có thời gian giáo viên có thể giao bài Luyện tập 2b) (trang 20 sách toán 6 Kết nối tri thức với cuộc sống tập 2)
2) Tích cực hóa hoạt động tự luyện tập của học sinh từ khâu chuẩn bị ở nhà
Khối lượng kiến thức, kỹ năng sau một tiết lý thuyết không phải là nhiều song nếu học sinh không coi trọng việc học và làm bài tập về nhà sẽ dẫn đến lúng túng khi lên bảng chữa bài, không hiểu bài, không nhận xét được bài làm của bạn. Do đó, giáo viên mất nhiều thời gian khi tiến hành bước 1, bài giảng đã được chuẩn bị sẽ tiến hành không như ý định đặt ra.
Ví dụ: “Luyện tập chung” (trang 65 sách toán 6 Kết nối tri thức với cuộc sống tập 2)
(Sau bài“Số đo góc” Toán 6) (trang 61 tập 2 sách Kết nối tri thức với cuộc sống)
Với mục tiêu:
– Khắc sâu kiến thức về số đo góc của một góc.
– Rèn kỹ năng giải bài tập về nhận biết số đo góc, áp dụng tính chất về số đo góc của một góc để làm bài tập.
– Vẽ hình cẩn thận, chính xác.
* Đối với lớp 6D giáo viên tiến hành bước 1 như sau:
– Kiểm tra bài cũ: Thế nào là số đo góc của một góc ? Vẽ số đo góc của góc xOy ?
Học sinh lên bảng phát biểu thuộc lòng định nghĩa số đo góc của một góc, nhưng việc vẽ số đo góccủa góc xOy là khó khăn, vì học sinh không hiểu sâu bản chất của kiến thức, học sinh lúng túng trong việc vận dụng kiến thức vào làm các bài tập có liên quan.
Xem thêm:
- SKKN Kinh nghiệm dạy giờ luyện tập toán nhằm nâng cao chất lượng cho học sinh lớp 6 sách Kết nối tri thức
- SKKN Lồng ghép giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh lớp 3 thông qua giảng dạy môn tự nhiên và xã hội (Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống)
- SKKN Lồng ghép một số nội dung lịch sử địa phương Huyện Hưng Nguyên vào Bài 1 môn GDQP-AN 10 nhằm nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh Trường THPT – KNTT
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 3
- 183
- 1
- [product_views]
- 4
- 154
- 2
- [product_views]
- 1
- 191
- 3
- [product_views]
- 4
- 150
- 6
- [product_views]
300.000 ₫
- 5
- 105
- 7
- [product_views]
300.000 ₫
- 8
- 102
- 8
- [product_views]
300.000 ₫
- 3
- 145
- 9
- [product_views]
300.000 ₫
- 0
- 166
- 10
- [product_views]