SKKN Một số giải pháp quản lý phòng, chống, ngăn chặn hành vi bạo lực học đường, góp phần xây dựng trường đạt chuẩn ‘An toàn về an ninh, trật tự’ tại trường THPT
- Mã tài liệu: MT0221 Copy
Môn: | Quản lí |
Lớp: | THPT |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 2761 |
Lượt tải: | 36 |
Số trang: | 51 |
Tác giả: | Đặng Thị Thanh Hiền |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | THPT Đô Lương 4 |
Năm viết: | 2021-2022 |
Số trang: | 51 |
Tác giả: | Đặng Thị Thanh Hiền |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | THPT Đô Lương 4 |
Năm viết: | 2021-2022 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Một số giải pháp quản lý phòng, chống, ngăn chặn hành vi bạo lực học đường, góp phần xây dựng trường đạt chuẩn ‘An toàn về an ninh, trật tự’ tại trường THPT” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
1. Tổ chức tập huấn nghiệp vụ về HĐGDNGLL cho cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường.
2. Tiến hành phân loại các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
3. Về việc phân công các tổ chức trong nhà trường tham gia các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
4. Thống nhất kế hoạch và nội dung thực hiện HĐGDNGLL.
5. Ban giám hiệu bồi dưỡng các kỹ năng tổ chức, điều hành hoạt động cho đội ngũ giáo viên và học sinh, từ đó phân công theo dõi, kiểm tra, đánh giá.
Mô tả sản phẩm
PHẦN MỘT: MỞ ĐẦU
- Bối cảnh của đề tài:
Nhằm tiếp tục quán triệt thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 48 /CT – TW của bộ chính trị gắn với thực hiện nghị quyết số 09/1998 NQ – CP ngày 31/7/1998 của chính phủ, giao cho lực lượng Công an, Quân sự tăng cường công tác tuần tra phát hiện kịp thời xử lý và thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin của xã và của các xóm trên địa bàn nhằm giáo dục, răn đe những đối tượng có ý đồ phạm tội; Chỉ thị số 09 – CT/TW ngày 01/12/2011 của Ban bí thư Trung ương Đảng; Quyết định số 57/2006/ QĐ – UBND ngày 09/06/2006 của UBND tỉnh Nghệ An về việc “ Ban hành quy chế tổ chức và hoạt động tự quản về ANTT”; Kế hoạch số 05/KH/UBND, ngày 04/01/2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh về “ Xây dựng bảo vệ ANTQ”.Thực hiện có hiệu quả thông tư số 23/TT – BCA ngày 27/4/2012 của Bộ Công an quy định về khu dân cư, xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường đạt tiêu chuẩn “An toàn về An ninh trật tự”. Quyết định số 79/QĐ-UBND ngày 02/11/2012 của UBND Tỉnh Nghệ An về việc ban hành Quy định khu dân cư, xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường trên địa bàn tỉnh Nghệ An đạt tiêu chuẩn “An toàn về an ninh, trật tự”; Hướng dẫn số 2437/HD-CAT-PV28 ngày 25/11/2012 của Công an tỉnh Nghệ An về hướng dẫn thực hiện xây dựng khu dân cư, xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường đạt tiêu chuẩn “An toàn về an ninh, trật tự”; mới nhất là quyết định số 510 /QĐ-BCA.V05 ngày 20/1/2022 của Bộ Công an về ban hành “Quy định tiêu chí đánh giá, phân loại phong trào toàn dân bảo về an ninh tổ quốc. Đồng thời góp phần thực hiện hiệu quả mô hình “Trường học an toàn, thân thiện, chấp hành tốt luật giao thông”, trong đó ngăn chặn, phòng, chống được bạo lực học đường là một trong những tiêu chí phải đạt được mà quy chế hoạt động của mô hình đã đề ra.
Mặt khác sinh thời Bác Hồ luôn quan tâm và dành nhiều tình cảm thương yêu sâu sắc đối với thế hệ trẻ. Trong “Thư gửi các bạn thanh niên” ngày 12/8/1947, Bác viết: “… Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên. Thanh niên muốn làm chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó”. Trong “Di chúc”, Bác cũng dành những lời lẽ tâm huyết nói về thanh niên: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đào tạo cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”. Bác xem đạo đức là yếu tố quan trọng hình thành nhân cách con người. Đối với học sinh thì việc giáo dục đạo đức lại là việc cần quan tâm trước tiên, như ông bà ta thường nói “dạy con từ thuở còn thơ”. Ý thức được tầm quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa ra chủ đề là “Học làm người trước khi học lấy chữ”. Chủ đề này được sự đồng tình của nhiều người, bởi những năm gần đây hạnh kiểm của một số em học sinh có chiều hướng giảm sút gây nỗi lo âu cho xã hội cũng như những người công tác trong ngành giáo dục.
Trong những năm gần đây vấn đề bạo lực học đường đang được dư luận rất quan tâm và được coi là một hiện tượng xã hội đã đến mức nguy hiểm và nghiêm trọng. Có rất nhiều cuộc hội thảo về chuyên đề phòng chống bạo lực trong nhà trường để đưa ra những biện pháp nhầm giải quyết hiện tượng bạo lực trong học sinh. Có ý kiến cho rằng “Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn tới hiện tượng trên đó chính là tình trạng nặng về dạy chữ, nhẹ về dạy người làm giảm hiệu quả của việc giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, chưa quan tâm đầy đủ và huy động các nguồn lực cần thiết cho công tác giáo dục đạo đức học sinh”. Việc giáo dục đạo đức, nhân cách, kỹ năng sống cho học sinh là việc làm thường xuyên và cần phải thực hiện bằng nhiều kênh khác nhau. Tuy nhiên, trong nhà trường vấn đề tu dưỡng đạo đức cho học sinh là trách nhiệm của các thầy cô giáo, không thể phủ nhận vai trò của Ban Giám hiệu, đứng đầu là Hiệu trưởng, tổ chức Đoàn thanh niên, giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc hình thành nhân cách của học sinh. Với thực trạng bạo lực trong học đường hiện nay, nhà trường cần phải làm gì để phòng, chống, ngăn chặn kịp thời và giúp học sinh phát triển nhân cách trở thành những con người lao động sáng tạo, làm chủ bản thân, làm chủ đất nước, có đức có tài.
- Lý do chọn đề tài:
Góp phần xây dựng nhà trường đạt tiêu chuẩn “An toàn về an ninh, trật tự”. Mặt khác thời gian gần đây chúng ta đã nghe và đọc rất nhiều đến cụm từ “Bạo lực học đường”; sách báo đã dành rất nhiều trang để nói về điều này. “Bạo lực học đường”: đó là những hành vi xâm phạm có chủ ý, có ý đồ, thường gây hậu quả nghiêm trọng và xảy ra trong phạm vi nhà trường. Nếu nhìn từ góc độ lấy học sinh làm trung tâm thì bạo lực học đường là sự xâm hại của học sinh đối với học sinh, sự xâm hại của học sinh đối với người bên ngoài nhà trường và ngược lại, là sự xâm hại của giáo viên đối với học sinh và ngược lại… Bạo lực ấy xâm phạm đến sức khoẻ hoặc danh dự của người bị hại, hoặc xâm phạm đến tính mạng và nhân phẩm của người bị hại. Bạo lực ấy không chỉ xảy ra trong phạm vi nhà trường mà còn xảy ra ngoài nhà trường. Bên cạnh đó ngoài việc phòng chống, ngăn chặn bạo lực học đường, chúng ta phải tập trung giáo dục toàn diện cho học sinh. Do đó tôi chọn đề tài “Một số giải pháp quản lý phòng, chống, ngăn chặn hành vi bạo lực học đường, góp phần xây dựng trường đạt chuẩn ‘An toàn về an ninh, trật tự’ tại trường THPT Đô Lương 4”.
- Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Đứng trước những bức xúc của xã hội về bạo lực học đường ngày càng diễn ra phức tạp và nguy hiểm. Nếu chúng ta không có biện pháp ngăn chặn thì các mâu thuẫn sẽ đẩy đến chỗ gay gắt hơn. Ở đây tôi đưa ra một vài biện pháp quản lý để giải quyết những mâu thuẫn tiềm ẩn trong các em học sinh nhằm xử lí, hòa giải những mâu thuẫn đó một cách triệt để, đồng thời triển khai các hoạt động ngoài giờ lên lớp thông qua mô hình “Trường học an toàn, thân thiện chấp hành tốt luật giao thông”n. Với những cách làm này nó sẽ ngăn chặn, răn đe các em còn lại và đồng thời xóa hết những mâu thuẫn mà các em đã gây ra. Đồng thời triển khai tổ hợp các giải pháp xây dựng trường đạt chuẩn “An toàn về an ninh trật tự”, duy trì ổn định, đẩy mạnh chất lượng giáo dục toàn diện.
- Phạm vi và đối tượng của đề tài:
Đề tài tập trung nghiên cứu “Một số giải pháp quản lý phòng, chống, ngăn chặn hành vi bạo lực học đường, góp phần xây dựng trường đạt chuẩn “An toàn về an ninh, trật tự” nhằm giải quyết tình trạng bạo lực đang leo thang trong các trường phổ thông, giúp để giải quyết những mâu thuẫn của học sinh THPT nói chung và tập trung tại trường THPT Đô Lương 4, đồng thời tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp, rèn luyện, phát triển các kỹ năng cho học sinh vùng nông thôn, vùng khó xa trung tâm huyện Đô Lương.
Đối tượng nghiên cứu là học sinh ở bậc THPT, tập trung chủ yếu tại trường THPT Đô Lương 4.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
5.1. Xác định cơ sở khoa học của việc quản lý chỉ đạo hoạt động giáo dục học sinh rèn luyện đạo đức, kỹ năng sống và nâng cao trí lực, phòng chống, ngăn chặn bạo lực học đường cho học sinh.
5.2. Phân tích, điều tra thực trạng việc quản lý, chỉ đạo hoạt động giáo dục học sinh rèn luyện đạo đức, kỹ năng sống và nâng cao trí lực, phòng chống, ngăn chặn bạo lực học đường cho học sinh ở trường THPT Đô Lương 4, Tỉnh Nghệ An.
5.3. Đề xuất và lý giải một số biện pháp chỉ đạo nhằm phòng, chống, ngăn chặn bạo lực học đường cho học sinh vùng khó, vùng xa trung tâm thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên trong giai đoạn hiện nay. Từ đó có cơ sở để từng bước xây dựng trường đạt chuẩn “An toàn về an ninh, trật tự” lớp ở trường THPT Đô Lương 4, tỉnh Nghệ An.
- Phương pháp nghiên cứu.
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
– Nghiên cứu các Văn kiện Đại hội Đảng, Hiến pháp, Luật Giáo dục, Điều lệ trường trung học, Hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục nói chung và HĐGDNGLL nói riêng của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở GD-ĐT tỉnh Nghệ An, Trường THPT Đô Lương 4.
– Giáo trình, các bài giảng về công tác quản lý giáo dục.
– Tài liệu, Tạp chí viết về bạo lực học đường…
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
– Quan sát, đàm thoại, trao đổi, khảo sát…
– Triển khai bài bản các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
– Tổ chức các hoạt động mô hình “Trường học an toàn, thân thiện, chấp hành tốt luật giao thông”.
– Tổ chức các câu lạc bộ “Văn học dân gian”; “Tiếng Anh”…
– Tổng kết kinh nghiệm quản lý giáo dục.
– Thông tin từ các chính quyền, địa phương, thực tế địa bàn…
– Thông tin từ Công An 5 xã có học sinh học tại trường (Hiến Sơn, Trù Sơn, Đại Sơn, Mỹ Sơn, Thượng Sơn); Công An Huyện Đô Lương.
6.3. Nhóm phương pháp nghiên cứu hỗ trợ
– Thống kê, tổng hợp, toán học, biểu bảng, sơ đồ…
- Khẳng định tính sáng tạo về khoa học và thực tiễn của vấn đề:
Đây là một trong những biện pháp quản lý mà tôi, cùng ban Giám hiệu, Đoàn thanh niên đã áp dụng trong công tác quản lý, chỉ đạo theo dõi việc thực hiện nội qui của học sinh và trực tiếp xử lí các mâu thuẫn đánh nhau của học sinh THPT, nhất là tại trường THPT Đô Lương 4, thuộc vùng nông thôn, vùng khó, xa trung tâm huyện Đô Lương. Các biện pháp quản lý này nó đã giúp cho nhà trường rất nhiều và đã hạn chế đến mức thấp nhất những hành vi bạo lực trong trường, góp phần quan trọng trong việc xây dựng trường đạt chuẩn “An toàn về an ninh, trật tự”, duy trì ổn định, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Đồng thời tạo tiền đề cho việc tổ chức thành công các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
- Kết cấu của đề tài:
Đề tài gồm có ba phần:
– Phần một: Phần mở đầu.
– Phần hai: Phần nội dung
– Phần ba: Bài học kinh nghiệm-kết luận-kiến nghị.
PHẦN HAI: PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA VIỆC QUẢN LÝ
PHÒNG, CHỐNG CÁC HÀNH VI BẠO LỰC HỌC ĐƯỜNG, GÓP PHẦN XÂY DỰNG TRƯỜNG ĐẠT CHUẨN “AN TOÀN VỀ AN NINH, TRẬT TỰ”
- Cơ sở lý luận của vấn đề bạo lực học đường.
1.1. Vì sao chúng ta phải quan tâm giáo dục học sinh có hành vi không mong đợi:
– Trong tập thể nhà trường luôn tồn tại những học sinh dễ giáo dục và những học sinh khó giáo dục, hay có những hành vi không mong đợi. Những học sinh khó giáo dục là những em thường có những thái độ, hành vi không phù hợp với giá trị, nội quy, truyền thống của tập thể, không thực hiện tròn bổn phận và trách nhiệm của người học sinh, hoặc thiếu văn hóa, thiếu đạo đức trong quan hệ ứng xử với mọi người mặc dù đã được nhà trường, gia đình quan tâm chỉ dẫn, giáo dục… Nếu hành vi không mong đợi của các em lặp lại thường xuyên và trở thành hệ thống thì trong thực tiễn nhà trường hiện nay được gọi là học sinh cá biệt. Những học sinh này được giáo viên coi là khó dạy, thậm chí hư hỏng.
– Trách nhiệm của giáo dục nói chung và giáo viên nói riêng về lý thuyết không được để còn những học sinh có hành vi chưa phù hợp với giá trị, chuẩn mực xã hội và những qui định chung của nhà trường, lớp học, cộng đồng. Bởi giáo dục có sứ mạng là hình thành và phát triển nhân cách vừa có cá tính (mang bản sắc riêng của mình) nhưng phải biết sống hài hòa với các giá trị chung của loài người, dân tộc và cộng đồng để có cuộc sống hạnh phúc.
– Nếu trong lớp tồn tại những học sinh cá biệt, luôn có những hành vi tiêu cực, không phù hợp thì sẽ ảnh hưởng đến tập thể, những thành viên khác. Trong thực tế nhiều giáo viên chủ nhiệm cảm thấy rất bị áp lực, có khi bất lực khi trong lớp có những học sinh được gọi là cá biệt. Bởi vì giáo viên chủ nhiệm không chỉ gặp khó khăn trong ứng phó với chính học sinh đó , mà đôi khi còn gây ảnh hưởng đến học sinh khác, đến tập thể lớp. Biểu hiện phổ biến của học sinh được coi là cá biệt có thể như sau:
+ Có những thay đổi khác lạ trong thái độ, cách cư xử: trở nên lãnh đạm, không chan hòa, không muốn hòa đồng, cáu kỉnh, xúc phạm người khác, thậm chí gây gổ dẫn đến đánh nhau.
+ Không quan tâm, hứng thú với những trường học và việc học, học sa sút, thậm chí là bỏ học.
+ Thiếu tự tin vào bản thân. Không tin cậy người khác.
+ Thường xuyên vi phạm nội qui của lớp, trường.
+ Cố thu hút sự chú ý của người khác bằng những hành vi như phá phách, vô lễ, ăn cắp, nói dối…
+ Hay đánh đập bạn, hay ồn trong giờ học, bỏ học trốn học để đi chơi.
+ Thậm chí có những em rơi vào con đường nghiện ngập ma túy và các tệ nạn xã hội khác…
Tóm lại học sinh cá biệt là những học sinh có sự bất thường về tính cách, không có động cơ học tập, tâm lý không ổn định.
+ Trong số những học sinh được coi là cá biệt, đôi khi có những em có tiềm năng về cá tính, do giáo viên không hiểu được, không có cách tiếp cận và tác động phù hợp hoặc không được sự giúp đỡ kịp thời, đúng cách… mà dẫn đến sự biểu hiện những hành vi không phù hợp của học sinh.
Vì vậy, đối với học sinh cá biệt, cán bộ quản lý, giáo viên chủ nhiệm thực sự cần là kỹ sư tâm hồn, có trách nhiệm phối hợp với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường, mà trước hết là với tập thể lớp giúp những em này điều chỉnh, thay đổi niềm tin, thái độ, hành vi của mình để các em có tương lai tốt đẹp hơn.
1.2. Tìm hiểu các căn nguyên của hành vi không mong đợi:
1.2.1. Để hiểu được nội dung và biện pháp giáo dục học sinh cá biệt cần tìm hiểu nguyên nhân của hiện tượng này.
- Nguyên nhân do yếu tố sinh học:
Một số em sinh ra đã có vấn đề, bản thân tính hay gây gổ, hung hăng… do tình trạng cha mẹ yếu về thể chất, tinh thần, học sinh kém dinh dưỡng…
- Nguyên nhân do yếu tố tâm lí – xã hội:
Các chuyên gia tâm lí và những người nghiên cứu về hành vi của học sinh ở trường học kết luận rằng những vấn đề thái độ và cách cư xử bất thường của các em phần lớn bắt nguồn từ những vấn đề thực tế mà các em phải đối mặt trong cuộc sống. Đó là những vấn đề có liên quan đến môi trường, hoàn cảnh sống của các em. Có thể các em gặp các vấn đề trong gia đình, hoặc trong quan hệ với bạn bè, thầy cô, hoặc những trở ngại khác… nên luôn gây khó chịu trong các mối quan hệ khiến mọi người không bằng lòng. Do đó mọi người lại đối xử khắt khe, không thông cảm. Chính sự khắt khe, thiếu quan tâm, bỏ mặc, không lắng nghe, thiếu thông cảm và tha thứ của mọi người lại càng làm cho các em thấy cô đơn,d ẫn đến sa sút trong học tập, buông thả trong lối sống.
Trong số những học sinh có những hành vi không mong đợi , thậm chí trở thành học sinh cá biệt có cả những học sinh tiềm năng nhưng vì nguyên nhân nào đó cảm thấy chán nản về năng lực của mình, mất dần hứng thú, động cơ học tập, hoạt động. Học sinh đó tin rằng mình không thể “khá” lên được, đánh giá thấp về bản thân mình, không vượt qua được khó khăn, dễ bỏ giữa chừng, kém tự tin.
Các nhà nghiên cứu về giáo dục đã kết luận rằng “tất cả những học sinh “hư” hay có hành vi không phù hợp đều là những học sinh chán nản”. Khi chán nản, học sinh không còn hứng thú hoạt động và động cơ hoạt động nữa. Chán nản là nguyên nhân của hầu hết những thất bại học đường, đặc biệt với những học sinh mới lớn. Một số em cho rằng mình không đáp ứng được mong mỏi của thầy cô, cha mẹ. Cảm giác, tâm trạng chán nản của học sinh nảy sinh còn do những nhu cầu cơ bản như: an toàn, yêu thương, tôn trọng… không được đáp ứng, hoặc gặp những vấn đề trong tình cảm, học sinh sẽ buồn rầu, có cảm xúc tiêu cực, cảm thấy bất hạnh, có thể không kiềm chế được bản thân.
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 5
- 131
- 1
- [product_views]
- 4
- 179
- 3
- [product_views]
- 2
- 142
- 5
- [product_views]
- 0
- 123
- 6
- [product_views]
- 6
- 169
- 7
- [product_views]
- 3
- 189
- 8
- [product_views]
- 5
- 177
- 9
- [product_views]
- 6
- 124
- 10
- [product_views]