SKKN Một số phương pháp học từ vựng nhanh và hiệu quả cho học sinh lớp 10 môn Tiếng Anh THPT
- Mã tài liệu: MP0025 Copy
Môn: | Tiếng anh |
Lớp: | 10 |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 972 |
Lượt tải: | 4 |
Số trang: | 29 |
Tác giả: | Trần Thị Huệ |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | THPT Phan Đăng Lưu |
Năm viết: | 2021-2022 |
Số trang: | 29 |
Tác giả: | Trần Thị Huệ |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | THPT Phan Đăng Lưu |
Năm viết: | 2021-2022 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Một số phương pháp học từ vựng nhanh và hiệu quả cho học sinh lớp 10 môn Tiếng Anh THPT” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
– Học từ vựng thông qua việc tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa trong ngữ cảnh.
– Ứng dụng Quizizz trong tạo bài tập từ vựng dưới dạng thức trò chơi cho học sinh
-Hướng dẫn học sinh tự tạo nội dung học tập trên từ điển Tflat.
Mô tả sản phẩm
- MÔ TẢ SÁNG KIẾN
- Tình trạng các giải pháp đã biết
Dạy và học từ vựng luôn là một trong những phần mấu chốt trong việc hình thành tư duy ngôn ngữ cho người học. Theo quan điểm của nhiều nhà ngôn ngữ học thì “từ vựng chính là những viên gạch xây nên ngôi nhà của ngôn ngữ”. Thiếu gạch, ngôi nhà ấy sẽ không thể tồn tại, vì vậy làm thế nào để nhớ và sử dụng từ vựng hiệu quả được coi là điều kiện tiên quyết, là vấn đề được nhiều người học và người dạy quan tâm.
Theo truyền thống, có rất nhiều phương pháp dạy và học từ phổ biến. Nhiều giáo viên chọn cách cho học sinh chép đi chép lại nhiều lần để ghi nhớ từ vựng hoặc ngồi cả giờ để tập nói các từ vựng ấy. Nhiều thầy cô thì lại cho học sinh nhớ từ qua các trò chơi ngôn ngữ như: rub out and remember, ordering, matching, jumbled words, wordsquare, wordsearch, gapfill, subsituation, what and where.
Tuy nhiên, không có cách học nào là “vạn năng”, mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và những hạn chế riêng. Trong bối cảnh tình hình đại dịch Covid -19 đang diễn ra – khi học sinh phải tham gia nhiều lớp học trực tuyến thì việc dạy và học từ vựng cho học sinh thông qua những hoạt động đơn thuần trên lớp giờ đang gặp phải nhiều khó khăn.Việc tập nói hay chơi trò chơi sẽ khó để thực hiện, tiết học thiếu tính tương tác sẽ làm cho học sinh không thể ghi nhớ được nhiều từ và sử dụng từ tốt được. Vì thế, bản thân tôi lo lắng việc học của các em sẽ bị ảnh hưởng. Qua quá trình thực hiện các tiết học và tìm hiểu từ bạn bè, sáng kiến kinh nghiệm “Một số phương pháp học từ vựng nhanh và hiệu quả cho học sinh lớp 10 môn Tiếng Anh THPT” được tôi nghiên cứu nhằm mục tiêu định hướng cho học sinh học, ghi nhớ từ vựng nhanh, khắc phục một số vấn đề hiện tại đang gặp phải do dạy học trực tuyến. Thông qua sáng kiến, tôi hy vọng có thể thiết kế được những phương pháp học từ có tính ứng dụng cao, có độ tương tác tốt, phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong hoạt động học từ vựng.
- Nội dung (các) giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến
2.1. Mục đích của (các) giải pháp:
Bên cạnh việc học phần ngữ pháp – bộ xương của ngôn ngữ, người học cần có từ vựng để làm chủ ngôn ngữ ấy. Không có từ, không hiểu câu và dùng câu ấy, người học sẽ không thể giao tiếp. Hơn nữa, theo định hướng thi trong đề thi THPT Quốc gia, bên cạnh những bài tập cơ bản liên quan tới ngữ pháp, để giành điểm tốt hơn, học sinh cần có một lượng từ nhất định. Từ vựng giúp các em có nền tảng thể hiện năng lực ngôn ngữ của mình đồng thời chiến thắng các kỹ năng trong các đề thi IELTS; TOEFL; TOEIC, v.v…
Vì thế có thể khẳng định rằng từ vựng là một phần vô cùng quan trọng trong chương trình tiếng Anh nói chung và chương trình THPT nói riêng.
Là một giáo viên Tiếng Anh trực tiếp giảng dạy tại trường THPT, thông qua việc cho học trò làm bài tập, giải đề và phỏng vấn các em tôi nhận thấy rằng hầu hết các em đều không làm tốt những bài tập liên quan đến từ vựng. Đặc biệt, ở vùng miền núi là một điều rất bất lợi vì sau khi học xong các em không có cơ hội thực hành nhiều nên quên rất nhanh. Vì thế nhiều em cũng cố gắng nhưng vì chỉ thấy từ vựng xuất hiện vài lần trên lớp hoặc bài kiểm tra nên sự cố gắng ấy cũng không kéo dài lâu.
Mặc dù các trò chơi ngôn ngữ và hoạt động học từ trên lớp có thể hữu ích cho các em nhớ từ nhưng vì học trực tuyến nhiều tiết học nên các hoạt động ấy rất khó thực hiện. Đồng thời, vì không gặp mặt trực tiếp các em nên giáo viên cũng khó có thể kiểm tra thường xuyên được.
Chính vì những lý do trên tôi đã cố gắng tìm tòi, học hỏi tham khảo các loại tài liệu, bạn bè, đồng nghiệp, tìm hiểu tâm lí học sinh… nghiên cứu, ứng dụng những kiến thức mình đã có vào quá trình nghiên cứu và thực hành một số cách để thay đổi cách thức triển khai hoạt động dạy – học từ vựng trong tiết học, định hướng cho các em cách thức tự học hiệu quả, góp phần giúp các em học sinh thoải mái, tự tin hơn trong giờ học. Mong muốn duy nhất của tôi khi thực hiện đề tài này là biến việc học từ vựng trở nên dễ dàng và đầy hứng thú .Tôi tập trung vào các giải pháp nhằm tăng tính tương tác của học sinh khi học từ trong các tiết học trực tuyến đồng thời hướng dẫn các em khai thác tận dụng thiết bị thông minh để học từ và tự ôn tập từ vựng tại nhà.
Hơn thế nữa, mục tiêu của tôi là mong muốn bản thân có thêm nhiều hiểu biết đổi mới phương pháp dạy học của mình phù hợp với từng thời kỳ.
2.2. Nội dung giải pháp:
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
- Vai trò của từ vựng
Trong dạy và học tiếng Anh, từ vựng là một trong ba thành tố tạo thành hệ thống kiến thức ngôn ngữ và đóng vai trò là phương tiện, điều kiện hình thành và phát triển kỹ năng giao tiếp. Trong bất kỳ một ngôn ngữ nào, vai trò của từ vựng cũng hết sức quan trọng. Có thể thấy một ngôn ngữ là một tập hợp của các từ vựng. Không thể hiểu ngôn ngữ mà không hiểu biết từ vựng, hoặc qua các đơn vị từ vựng. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc chỉ hiểu các đơn vị từ vựng riêng lẻ, độc lập với nhau mà chỉ có thể nắm vững được ngôn ngữ thông qua mối quan hệ biện chứng giữa các đơn vị từ vựng. Như vậy việc học từ vựng và rèn luyện kĩ năng sử dụng từ vựng là yếu tố hàng đầu trong việc truyền thụ và tiếp thu một ngôn ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng. Vì từ vựng là một đơn vị ngôn ngữ nên nó được thể hiện dưới hai hình thức: Lời nói và chữ viết. Muốn sử dụng được ngôn ngữ đó, tức là phải nắm vững hình thức biểu đạt của từ bằng lời nói và chữ viết. Song do có mối liên quan của từ vựng với các yếu tố khác trong ngôn ngữ (ngữ pháp, ngữ âm, ngữ điệu …) hoặc trong tình huống giao tiếp. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng để xây nên một bức tường ngôn ngữ thì từ vựng là “những viên gạch” còn ngữ pháp và các cấu trúc câu là “những mạch vữa” để gắn kết những viên gạch tạo nên bức tường ngôn ngữ. Nếu không có một vốn từ vựng cần thiết thì người học không thể sử dụng các cấu trúc câu và các chức năng ngôn ngữ trong giao tiếp. Tuy nhiên, các quan điểm dạy và học từ vựng trong tiếng Anh không ngừng biến đổi dẫn đến các phương pháp dạy và học từ vựng cũng đã có nhiều đổi thay. II. Phương pháp dạy và học từ vựng truyền thống
- Phương pháp dạy từ theo trường phái Ngữ pháp – Dịch:
Phương pháp “Grammar – Translation Method” hay còn gọi là phương pháp
Truyền thống được áp dụng mạnh mẽ ở Việt Nam vào những năm 1970 cho đến tận những năm 1990. Phương pháp này coi mục đích chủ yếu của dạy và học tiếng Anh là cung cấp cho người học hệ thống từ vựng ngữ pháp tiếng Anh để phát triển kỹ năng đọc hiểu, học thuộc lòng từ vựng, dịch văn bản, đọc các tác phẩm văn học, viết luận (composition) và phân tích ngôn ngữ (học để nắm chắc quy tắc ngôn ngữ) chứ không tập trung vào kỹ năng giao tiếp. Để đọc hiểu các văn bản bằng tiếng Anh, người học được trang bị một lượng từ vựng và hệ thống ngữ pháp văn bản tương đối lớn dưới dạng bảng liệt kê kèm theo nghĩa bằng tiếng mẹ đẻ của người học. Phương pháp này yêu cầu học sinh học bất kì từ mới nào miễn làm sao hiểu và dịch được nội dung bài đọc. Giáo viên khuyến khích người học sử dụng từ điển khi đọc với mục đích nhớ từ. Trên lớp, giáo viên đóng vai trò trung tâm. Việc dạy từ vựng chỉ tập trung vào nghĩa của từ. Quy trình thực hiện: Các bài khóa (texts) được biên soạn và chia ra thành từng đoạn ngắn. Việc giảng giải quy tắc ngôn ngữ là cơ bản. Để kiểm tra sự thông hiểu về nội dung bài khóa (nội dung văn hóa, đất nước học nói chung) và các quy tắc ngôn ngữ, người học bắt buộc phải dịch các bài khóa sang tiếng mẹ đẻ. Người học không được phép mắc lỗi ngôn ngữ, nếu có phải sửa ngay.
Mặc dù phương pháp này giúp người học được rèn luyện rất kỹ về ngữ pháp và tiếp thu lượng từ vựng khá lớn, nắm được tương đối nhiều các cấu trúc câu cơ bản, thuộc lòng các đoạn văn hay hoặc bài khóa mẫu và có thể đọc hiểu nhanh các văn bản.
Tuy nhiên, với xu hướng phát triển của đất nước và thời đại, mục đích của người học tiếng Anh cũng có thay đổi đòi hỏi phương pháp dạy và học tiếng Anh nói chung và từ vựng nói riêng cũng không thể mãi như cũ.
Người ta dần nhận ra phương pháp này :
- Không giúp người học “giao tiếp” được. Hoạt động chủ yếu trong lớp là người thầy; nghĩa là người thầy giảng giải, nói nhiều, học sinh thụ động ngồi nghe và ghi chép, không có ý kiến phản hồi hoặc không tham gia giao tiếp (nói) với thầy và bạn bè.
- Hoạt động dạy học chỉ diễn ra một chiều – người học hoàn toàn bị động, không có cơ hội thực hành giao tiếp trong lớp; khả năng sáng tạo và đặc biệt kỹ năng nói của người học bị hạn chế nhiều.
- Phương pháp Nghe –Nói (Audiolingual Method or Audio-Oral Method)
Nhấn mạnh vào việc dạy kỹ năng nói và kỹ năng nghe trước kỹ năng đọc và kỹ năng viết. Khác với phương pháp Ngữ pháp – Dịch, phương pháp này đáp ứng đúng mục tiêu cần đạt của người học là hình thành và phát triển cả bốn kỹ năng, nhưng ưu tiên phát triển nói, nghe trước đọc và viết. Việc cung cấp kiến thức ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) được thực hiện xen lồng trong quá trình dạy học. Phương pháp Nghe – Nói không cho phép việc dùng tiếng mẹ đẻ trong lớp; khuyến khích tối đa dùng tiếng Anh trong quá trình dạy học. Khi thực hiện, người ta nhấn mạnh việc phát triển hai kỹ năng nói và nghe là chủ yếu. Việc dạy học thông qua thực hành cấu trúc câu (structures) và qua các bài tập ứng dụng, người học tự phát hiện và tìm hiểu những điểm giống nhau (so với tiếng mẹ đẻ) về cấu trúc câu, cách phát ngôn và đưa ra các qui tắc ngôn ngữ. Yêu cầu người học bắt chước mẫu do người dạy cung cấp, ví dụ: các bài/mẩu đối thoại mẫu (dialogues) có chứa cấu trúc câu hoặc hiện tượng ngôn ngữ cần truyền đạt. Người học luyện tập mẫu đó thực chất là hình thành một thói quen ngôn ngữ theo các hình thức như: hỏi và trả lời về bài đối thoại mẫu, thực hành thêm một số bài tập cấu trúc (thay thế, bổ sung, chuyển đổi …). Đôi khi người học tập trung vào phát triển kỹ năng nghe và nói thông qua các bài hội thoại có sử dụng từ và cấu trúc ngữ pháp trong giao tiếp hàng ngày. Giáo viên dùng các đồ vật thật, hình vẽ, cử chỉ hay cách giải thích bằng chính tiếng Anh để giới thiệu từ mới. Phương pháp này cũng nhấn mạnh tới phát âm chính xác từ với hi vọng người học nói tiếng Anh như người bản ngữ. Việc dạy từ vựng trực tiếp không qua tiếng mẹ đẻ và chỉ chú trọng vào các tình huống giao tiếp cụ thể là cơ sở giúp người học mở rộng nhanh vốn từ.
Phương pháp Nghe – Nói có hiệu quả đối với những người mới học, đặc biệt là học sinh tiểu học hoặc học sinh ở đầu cấp. Người học cảm thấy phấn khởi và tự tin khi được nghe và tập bắt chước theo giáo viên. Ví dụ: Người học làm theo mệnh lệnh của giáo viên hoặc hát các bài hát tiếng Anh đơn giản.
Tuy nhiên, với người học có trình độ ngoại ngữ cao thì rất dễ nhàm chán với phương pháp này nếu không có sự điều chỉnh phương thức dạy học cần thiết. Mặc dù người học có thể nhắc lại từ một cách hoàn hảo xong họ không hiểu rõ nghĩa của từ và không có khả năng sử dụng từ trong những ngữ cảnh khác với điều đã được học; tức là thực tế không diễn đạt được những gì định nói mặc dù sau một thời gian dài học tập.
III. Phương pháp dạy học từ vựng hiện nay – Phương pháp Giao tiếp
Phương pháp Giao tiếp (Communicative Approach) được xem như phương pháp dạy học ngoại ngữ phổ biến nhất và hiệu quả nhất hiện nay. Hầu hết các giáo trình, sách giáo khoa phổ thông tiếng Anh trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay đều được biên soạn dựa theo quan điểm của phương pháp này. Qua đó, coi mục tiêu cuối cùng của dạy học ngoại ngữ là phát triển kỹ năng giao tiếp/kỹ năng ngôn ngữ (linguistic skills), năng lực giao tiếp (communicative competence). Để giao tiếp được, phương pháp này đòi hỏi phải tính đến phương diện xã hội, văn hóa của ngôn ngữ, các điều kiện xã hội của quá trình sản sinh ngôn ngữ, và tính đến ngôn ngữ được dùng trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra, phương pháp Giao tiếp còn chú ý tới phương diện nghĩa của ngôn ngữ, hay nói một cách khác cần lưu ý tới ý định giao tiếp (intention of communication). Khái niệm này về sau các nhà ngôn ngữ gọi là chức năng ngôn ngữ (language function). Như vậy, theo Phương pháp Giao tiếp ngôn ngữ không chỉ là phương tiện diễn đạt tư duy mà còn là phương tiện giao tiếp.
Mục đích cuối cùng của người học từ vựng không chỉ biết được cách đọc, cách viết và nghĩa của từ mà cần phải đạt được năng lực (khả năng) giao tiếp; tức là phát triển được tất cả 4 kỹ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) và sử dụng được từ vựng đó
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 7
- 105
- 1
- [product_views]
- 5
- 173
- 2
- [product_views]
- 4
- 165
- 3
- [product_views]
- 4
- 129
- 4
- [product_views]
100.000 ₫
- 6
- 434
- 5
- [product_views]
100.000 ₫
- 2
- 507
- 6
- [product_views]
100.000 ₫
- 9
- 546
- 7
- [product_views]
100.000 ₫
- 4
- 409
- 8
- [product_views]
100.000 ₫
- 2
- 595
- 9
- [product_views]
100.000 ₫
- 0
- 538
- 10
- [product_views]