SKKN Phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh thông qua khai thác bài toán tương giao trong đề thi tnthpt
- Mã tài liệu: MP0435 Copy
Môn: | Toán |
Lớp: | 12 |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 628 |
Lượt tải: | 14 |
Số trang: | 61 |
Tác giả: | Lê Thị Thu Huyền |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | THPT DTNT tỉnh Nghệ An |
Năm viết: | 2019-2020 |
Số trang: | 61 |
Tác giả: | Lê Thị Thu Huyền |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | THPT DTNT tỉnh Nghệ An |
Năm viết: | 2019-2020 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh thông qua khai thác bài toán tương giao trong đề thi tốt nghiệp thpt“ triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
4.1. Phát triển tư duy cho học sinh thông qua khai thác bài toán tương giao của hàm số tường minh
4.2. Phát triển tư duy cho học sinh thông qua khai thác bài toán tương giao của hàm số liên kết
4.3. Phát triển tư duy cho học sinh thông qua khai thác bài toán tương giao mức độ vận dụng, vận dụng cao
Mô tả sản phẩm
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới, giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu, là động lực để phát triển kinh tế xã hội. Với nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục đào tạo là đào tạo ra những con người phát triển toàn diện về mọi mặt, không những có kiến thức tốt mà còn vận dụng được kiến thức trong các tình huống thực tiễn. Với nhiệm vụ đó, việc rèn luyện và phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh ở các trường phổ thông của những người làm công tác giáo dục là hết sức quan trọng. Điều 30.3 trong Luật Giáo dục Số 43/2019/QH14 ghi rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phù hợp với đặc trưng từng môn học, lớp học và đặc điểm đối tượng học sinh; bồi dưỡng phương pháp tự học, hứng thú học tập, kỹ năng hợp tác, khả năng tư duy độc lập; phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực của người học; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào quá trình giáo dục”; Nghị quyết 29 về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đào tạo đã cũng nêu rõ “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực”.
Trong việc đổi mới phương pháp dạy học môn toán ở trường THPT, việc dạy giải bài tập toán có vai trò quan trọng vì: Dạy toán ở trường phổ thông là dạy hoạt động toán học. Việc giải toán là hình thức chủ yếu của hoạt động toán học, giúp học sinh phát triển tư duy, tính sáng tạo. Hoạt động giải bài tập toán là điều kiện để thực hiện các mục đích dạy toán ở trường phổ thông. Dạy giải bài tập toán cho học sinh có tác dụng phát huy tính chủ động sáng tạo, phát triển tư duy, phát triển phẩm chất năng lực, gây hứng thú học tập cho học sinh, yêu cầu học sinh có kỹ năng vận dụng kiến thức vào tình huống mới, có khả năng phát hiện và giải quyết vấn đề, có năng lực độc lập suy nghĩ, sáng tạo trong tư duy và biết lựa chọn phương pháp tự học tối ưu.
Trong quá trình dạy giải bài tập Toán ưu tiên hàng đầu là phải rèn luyện kỹ năng giải Toán, tức là phải rèn luyện cho người học cách suy nghĩ, phương pháp giải và khả năng vận dụng kiến thức, các hệ thống các dạng bài tập qua đó nhằm phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh.
Với thực trạng hiện nay, khả năng sáng tạo của học sinh đang còn hạn chế. Học sinh thường vận dụng kiến thức vào giải toán còn một cách máy móc, dẫn đến tư duy bị rập khuôn, máy móc. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này do các em nhìn các đối tượng toán học dưới dạng tĩnh mà chưa nhìn nhận dưới dạng động. 1
Một thực tế phổ biến trong suy nghĩ của học sinh là khi đứng trước một bài toán, thường thì các em chỉ nghĩ đến việc làm thế nào để giải bài toán đó; các em không suy nghĩ về những bài toán tương tự, trường hợp đặc biệt hay tổng quát bài toán đó như thế nào, liệu cách giải của bài toán này có thể áp dụng được cho những bài toán nào nữa hay không, tại sao lại như thế,…để từ đó sáng tạo, hình thành các lớp bài toán. Cũng vì lí do này, các em thường chỉ thấy các bài toán dưới dạng rời rạc mà không tìm ra được tính hệ thống của chúng. Điều đó làm cho một số em thiếu động lực trong quá trình học tập môn Toán, đặc biệt khi đứng trước các bài toán khó các em không có định hướng để tìm ra phương pháp giải.
Với thực trạng đó, đặt lên trách nhiệm của người thầy không thể chỉ đóng vai trò là các nhà giải Toán mà là người dẫn dắt, định hướng, truyền cảm hứng cho học sinh biết khai thác từ những bài toán đơn giản để mở rộng thành những bài toán mới, bài toán nâng cao từ đó hình thành các lớp bài toán mới nhằm giúp học sinh hiểu được các vấn đề một cách tổng quát.
Từ năm học 2017-2018, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thực hiện đề án thi tốt nghiệp trung học phổ thông môn Toán bằng hình thức trắc nghiệm. Nội dung chương trình chủ yếu tập trung vào chương trình khối 12. Trong đó, dạng bài toán “Tương giao” luôn nằm trong cấu trúc đề thi ở cả 3 mức độ nhận biết, thông hiểu, vận dụng. Lớp bài toán này rất đa dạng và được vận dụng nhiều trong việc giải các bài toán khác ở mức độ vận dụng, vận dụng cao.
Bài toán “Tương giao” là một dạng toán đa dạng được khai thác ở nhiều góc độ đa chiều, nhiều mức độ khác nhau từ nhận biết, thông đến vận dụng, vận dụng cao trong cấu trúc đề thi TNTHPT. Ngoài ra bài toán “Tương giao” còn được vận dụng trong việc giải các bài toán cực trị, giá trị lớn nhất, nhỏ nhất. Điều này đỏi hỏi tính cấp thiết trong việc dạy chủ đề bài toán “Tương giao”, giáo viên cần phải định hướng cho HS khai thác các khía cạnh của bài toán, giúp HS nắm được dạng toán một cách tổng thể.
Thực tế trong quá trình giảng dạy chủ đề bài toán “Tương giao” chúng tôi đã giúp các em định hướng trong việc khai thác từ bài toán đơn giản phát triển thành các dạng bài toán khó, bài toán tổng quát, từ đó tạo niềm tin, động lực trong việc học toán, phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh bước đầu nhận thấy đem lại hiệu quả rõ rệt. Từ những lý do trên và trong thực tiễn công tác của bản thân, chúng tôi xin nêu ra một số giải pháp khai thác các bài toán đơn giản từ đó hình thành, hệ thống thành bài toán khó. Đó là lý do chúng tôi chọn đề tài “Phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh thông qua khai thác bài toán tương giao trong đề thi TNTHPT”.
2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu phương pháp khai thác, hướng dẫn học sinh phát triển bài toán tương giao nhằm phát huy tư duy sáng tạo cho học sinh và nâng cao hiệu quả dạy học chủ đề bài toán tương giao, nâng cao kết quả thi tốt nghiệp THPT.
2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Các dạng bài toán tương giao hàm bậc 3, bậc 4 và hàm liên kết ở mức các mức độ vận dụng, vận dụng cao và các bài toán áp dụng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu.
– Đề tài tập trung vào việc định hướng phương pháp giải, mở rộng, tổng quát hóa bài toán tương giao từ mức độ đơn giản đến mức độ vận dụng cao.
– Về không gian: Một số lớp 12 ở trường THPTDTNT Tỉnh. – Thời gian: năm học 2021-2022 và 2022-2023
4. Phương pháp nghiên cứu.
– Phương pháp khảo sát: Mục đích của phương pháp khảo sát là tìm hiểu, đánh giá thực trạng và kết quả của các vấn đề nghiên cứu. Phương pháp khảo sát có thể được tiến hành bằng nhiều hình thức khác nhau. Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp khảo sát để tìm hiểu thực trạng vấn đề dạy phát triển tư duy sáng tạo cho HS, thực trạng học toán của HS trong trường THPT hiện nay và khảo sát để thấy hiệu quả của đề tài thực hiện. Phương pháp khảo sát chủ yếu là phỏng vấn, thăm dò ý kiến, dự giờ, xem giáo án của GV…
– Phương pháp phân tích: Thông qua các số liệu khảo sát, phân tích đánh giá thực trạng việc dạy và học của HS.
– Phương pháp tổng hợp: Tổng hợp mọi vấn đề liên quan để hình thành lí luận của đề tại, vận dụng của đề tài để rút ra kết luận cần thiết.
– Phương pháp khái quát hóa: Từ các số liệu, giải pháp thực nghiệm để khái quát thành giải pháp chung cho đề tài
– Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Thực hiện áp dụng đề tài trên một số phạm vi, đánh giá tác động của đề tài từ đó
5. Tính mới
Dạng bài toán Tương giao trong SGK Giải tích 12 là một chủ đề có kiến thức rộng, được khai thác nhiều dạng toán, nhiều phương pháp giải; có nhiều tài liệu tham khảo đã viết về chủ đề này. Các tài liệu tham khảo chủ yếu chỉ viết dưới cấu trúc là cung cấp các dạng bài tập rời rạc, chưa bao quát được các dạng bài toán của chủ đề, cũng như không định hướng phân tích bài toán theo hướng phát triển từ đơn giản đến phức tạp, tổng quát hóa. Trong đề tài này, mục đích của tác giả là đưa ra cách thức, phương pháp dẫn dắt tiếp cận kiến thức; từ các bài toán tương giao quen thuộc, đơn giản khai thác tạo ra các tình huống, các bài toán mới sau đó phát triển thành các lớp, dạng bài toán ở mức độ vận dụng, vận dụng cao và mở rộng thêm phương pháp giải một số bài toán, từ đó tổng quát hóa định hướng HS rút ra phương pháp giải tổng quát; giúp học sinh nắm được dạng bài toán một cách
3
tổng thể, linh hoạt và áp dụng để giải quyết các bài toán liên quan; phát huy tư duy sáng tạo cho học sinh.
6. Ý nghĩa của đề tài
Sáng kiến kinh nghiệm giúp cho học sinh hình thành, nắm vững được phương pháp giải lớp bài toán Tương giao ở cả 3 mức độ Nhận biết – Thông hiểu – Vận dụng;
Sáng kiến kinh nghiệm phát huy được tính chủ động, sáng tạo, phát triển tư duy toán học cho học sinh, tạo cho học sinh niêm đam mê nghiên cứu Toán học;
Sáng kiến kinh nghiệm là tài liệu giúp giáo viên trong việc ôn thi TNTHPT và sáng tạo các bài toán mới, xây dựng các ngân hàng câu hỏi.
4
PHẦN II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận.
1.1 Khái niệm tư duy
Tư duy là một hiện tượng tâm lý, là hoạt động nhận thức bậc cao ở con người. Cơ sở sinh lý của TD là sự hoạt động của vỏ đại não. Hoạt động TD đồng nghĩa với hoạt động trí tuệ. Mục tiêu của TD là tìm ra các triết lý, lý luận, phương pháp luận, phương pháp, giải pháp trong các tình huống hoạt động của con người.
1.2. Khái niệm và đăc trưng về tư duy sáng tạo
– Khái niệm.
Có nhiều giải thích về khái niệm TD sáng tạo, được giải thích ở các góc độ khác nhau nhưng các khái niệm đều thống nhất cho rằng: TD sáng tạo là một thuộc tính, một phẩm chất trí tuệ đặc biệt của con người; hoạt động sáng tạo diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc, mọi lĩnh vực; bản chất của sáng tạo là con người tìm ra cái mới, cái độc đáo và có giá trị xã hội.
– Đặc trưng của tư duy sáng tạo
Tư duy sáng tạo được đặc trưng bởi các yếu tố chính như tính mềm dẻo, tính thuần thục, tính độc đáo, tính chi tiết và tính nhạy cảm
– Tính mềm dẻo: là khả năng dễ dàng chuyển từ hoạt động trí tuệ này sang hoạt động trí tuệ khác. Đó là năng lực chuyển dịch dễ dàng nhanh chóng trật tự của hệ thống tri thức, xây dựng phương pháp tư duy mới, tạo ra sự vật mới trong mối liên hệ mới… dễ dàng thay đổi các thái độ cố hữu trong hoạt động trí tuệ con người.
– Tính thuần thục thể hiện khả năng tư duy, làm chủ kiến thức, kĩ năng và thể hiện tính đa dạng của các cách xử lý khi giải quyết vấn đề. Đó chính là năng lực tạo ra một cách nhanh chóng sự tổ hợp giữa yếu tố riêng lẻ của tình huống, hoàn cảnh, đưa ra giả thuyết, ý tưởng mới.
– Tính độc đáo là khả năng tìm tìm kiếm và quyết định phương thức lạ và duy nhất.
– Tính chi tiết: là khả năng lập kế hoạch, phối hợp giữa các ý nghĩ và hành động, phát triển ý tưởng, kiểm tra và chứng minh ý tưởng.
– Tính nhạy cảm: là năng lực phát hiện vấn đề, mâu thuẫn, sai lầm, bất hợp lý một cách nhanh chóng, có sự tinh tế của cơ quan cảm giác, có năng lực của trực giác, có sự phong phú về cảm xúc, nhạy cảm. Tính nhạy cảm biểu hiện ở thích ứng nhanh, linh hoạt..
1.3. Dạy học phát triển tư duy sáng tạo
Dạy học phát triển tư duy sáng tạo là phương pháp nhằm tìm ra các phương án, biện pháp thích hợp để kích hoạt khả năng sáng tạo và để đào sâu rộng khả
5
năng tư duy của một cá nhân hay một tập thể cộng đồng làm việc chung về một đề tài hay lĩnh vực nào đó. Phương pháp này giúp cá nhân hay tập thể thực hành tìm ra các phương án, các lời giải từ một phần đến toàn bộ các vấn đề nan giải.
1.4. Một số cách phát triển tư duy thông qua hoạt động dạy học.
– Tạo lập không khí trong lớp học
– Định hướng động cơ học tập đúng đắn cho HS
– Tạo ra sự thử thách vì sự thủ thách sẽ làm nảy sinh sự sáng tạo
– Tạo cơ hội cho HS hình thành thói quen xem xét vấn đề dưới nhiều góc độ khác nhau.
– Khuyến khích học sinh giải quyết vấn đề bằng nhiều cách, biết hệ thống hóa và vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
– Rèn thói quen tìm tòi cách giải hay, mới cho bài toán, vấn đề học tập
– Sử dụng các câu hỏi kích thích nhu cầu nhận thức, khám phá của học sinh.
– Rèn thói quen nhanh chóng phát hiện sai lầm , thiếu lôgic trong bài giải hoặc trong quá trình giải quyết vấn đề.
– Tạo lập thói quen mò mẫm – phát hiện vấn đề trong quá trình học tập.
– Rèn luyện việc vận dụng linh hoạt các thao tác tư duy trong quá trình học tập của HS.
– Rèn luyện kĩ năng suy luận lôgic trong học tập – Kích thích trí tưởng tượng sáng tạo của HS.
2. Thực trạng dạy học phát triển tư duy sáng tạo cho HS ở trường THPT hiện nay.
Qua nhiều năm đi dạy ở nhiều môi trường khác nhau, qua các tiết dự giờ, qua việc thăm dò ý kiến HS, GV, chúng tôi nhận thấy khả năng phát triển TDST của HS trong các trường THPT hiện nay còn dừng lại ở tư duy lối mòn, sức “ì” rất lớn. Biểu hiện là:
– Trong một tiết học gần như HS hoàn toàn phụ thuộc vào SGK, thụ động tiếp nhận kiến thức mà không phát hiện ra được những vấn đề mới.
– Phần lớn HS rất lúng túng khi GV đặt câu hỏi “vì sao?”, “tại sao lại như thế này mà không phải như thế kia?”, “nếu như”, “giả sử”…
– HS Chưa biết vận dụng kiến thức được học vào xử lý linh hoạt, sáng tạo các tình huống thực tiễn.
– HS áp dụng máy móc kiến thức kĩ năng, cách giải.
– HS chưa biết và chưa có thói quen tìm ra nhiều cách giải quyết cho một vấn đề.
6
– Chưa biết nhìn tổng thể, toàn diện đối với các vấn đề, chưa nhận thức được mọi sự vật đều có mối liên hệ với nhau, để giải quyết toàn diện, đồng bộ (linh hoạt, mềm dẻo).
Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng của lối dạy học truyền thống, nặng về truyền thụ tri thức dẫn đến đến cách tổ chức DH thụ động, không phát huy được tính tích cực học tập cũng như tiềm năng TDST của HS. Trong giờ dạy, đa số GV chỉ chú ý và cố gắng giảng hết những phần nội dung đã được trình bày trong SGK, rất ít, thậm chí không đưa thêm những câu hỏi hay bài tập nhằm mở rộng, khắc sâu kiến thức hay những bài tập có tác dụng phát triển TDST cho HS. GV chưa dành thời gian thỏa đáng để HS suy nghĩ về vấn đề cần giải quyết. Nhiều GV còn không dám để HS tự do tranh luận vì sợ làm mất thời gian, không hoàn thành được bài dạy (cháy giáo án). Nhiều khi HS chưa kịp nói hết ý đã bị GV thúc giục, thậm chí bác bỏ làm cho HS không được tự tin, nhiều em còn thấy e sợ, lúng túng,… Các hoạt động trao đổi, thảo luận được tiến hành rất nhanh, rất gấp gáp, dường như cho xong việc. Cách làm này dẫn đến không kích thích được HS tích cực suy nghĩ, tìm nhiều phương án, nhiều giải pháp và giải pháp độc đáo cho vấn đề. Tức không phát huy được các yếu tố của TDST ở HS.
Tư duy sáng tạo trong môn Toán học của HS THPT cũng không nằm ngoài thực trạng chung đó. Khi thực hiện bài giải, HS chủ yếu làm theo trình tự các bước tính, trình tự thực hiện các phép tính, HS chăm chú tính từng bước tỉ mỉ, cẩn thận mà không biết làm gộp, làm tắt các bước tính, chưa kết hợp giữa kĩ năng tính toán và suy luận vấn đề; vận dụng các tính chất của các phép tính, các phương pháp giải điển hình vào giải quyết một cách sáng tạo; chưa biết vận dụng cách giải loại, dạng, mẫu bài toán này vào giải quyết các loại, dạng, mẫu bài toán khác (phối hợp di chuyển các TTTD, phương pháp suy luận).
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 8
- 103
- 1
- [product_views]
- 5
- 169
- 3
- [product_views]
100.000 ₫
- 6
- 501
- 4
- [product_views]
100.000 ₫
- 6
- 485
- 5
- [product_views]
100.000 ₫
- 4
- 495
- 6
- [product_views]
100.000 ₫
- 3
- 446
- 7
- [product_views]
100.000 ₫
- 12
- 600
- 8
- [product_views]
100.000 ₫
- 9
- 480
- 9
- [product_views]
100.000 ₫
- 5
- 298
- 10
- [product_views]