SKKN Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu
- Mã tài liệu: BM3087 Copy
Môn: | Tiếng việt |
Lớp: | 3 |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 426 |
Lượt tải: | 7 |
Số trang: | 27 |
Tác giả: | Lê Thị Minh Hằng |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | Trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi |
Năm viết: | 2019-2020 |
Số trang: | 27 |
Tác giả: | Lê Thị Minh Hằng |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | Trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi |
Năm viết: | 2019-2020 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
1. Phân biệt kiểu so sánh phân môn Luyện từ và câu lớp 3
2. Lựa chọn phương pháp dạy
3. Sử dụng linh hoạt các hình thức hoạt động trong tiết dạy Luyện từ và câu
4. Trang bị kiến thức cho học sinh luôn chú trọng việc lồng ghép kiến thức giữa các phân môn Tiếng Việt
5. Tạo tâm thế thoải mái cho các em trong học tập
Mô tả sản phẩm
- PHẦN MỞ ĐẦU
- Lý do chọn đề tài.
Trong những năm qua Đảng, Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến phát triển giáo dục. Một trong những nhiệm vụ cơ bản của giáo dục đào tạo hiện nay là hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh một cách toàn diện. Do đó Tiếng Việt là môn học có vị trí đặc biệt quan trọng, góp phần tích cực vào rèn kĩ năng giao tiếp, là chìa khoá học tập để chiếm lĩnh tri thức loài người. Tiếng Việt góp phần bồi dưỡng tâm hồn, hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho người học sinh. Môn Tiếng Việt giúp cho học sinh 4 kĩ năng “nghe, nói, đọc, viết”. Ngôn ngữ dưới dạng nói (ngôn bản) và dưới dạng viết (văn bản) giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển xã hội. Có khả năng tác động đến đời sống tâm hồn của con người.
Các bộ phận cấu thành của môn Tiếng Việt trong trường tiểu học bao gồm: Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập viết, Tập làm văn. Trong đó, phân môn Luyện từ và câu là phân môn có tính chất khởi đầu của các phân môn khác. Qua tiết Luyện từ và câu học sinh có khả năng diễn đạt bằng lời nói rõ ràng, cụ thể sinh động mọi sắc thái biểu cảm. Nói và viết đó là những hình thức giao tiếp rất quan trọng, thông qua đó các em thực hiện quá trình tư duy- chiếm lĩnh tri thức, trao đổi tư tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp các em hiểu nhau, cùng hợp tác trong cuộc sống. Vấn đề đặt ra là người giáo viên dạy Luyện từ và câu như thế nào để nâng cao chất lượng, đáp ứng được khả năng tiếp thu bài của học sinh? Cách thức tổ chức, tiến hành tiết dạy Luyện từ và câu ra sao để đạt hiệu quả như mong muốn.
Trong thực tế những năm đã từng đứng trên bục giảng, tôi nhận thấy phân môn Luyện từ và câu với tư cách là một phân môn thực hành của môn Tiếng Việt ở trường tiểu học, Luyện từ và câu có nhiệm vụ hình thành và phát triển cho học sinh năng lực sử dụng từ và câu trong giao tiếp và học tập, là một loại hình nghệ thuật lấy ngôn từ làm phương tiện thể hiện. Có khả năng tác động đến đời sống tâm hồn của con người. Trong đó biện pháp tu từ so sánh góp một phần không nhỏ làm nên điều này. So sánh có khả năng khắc họa hình ảnh và gây ấn tượng mạnh mẽ làm nên một hình thức miêu tả sinh động, mặt khác so sánh còn có tác dụng làm cho lời nói rõ ràng, cụ thể sinh động, diễn đạt được mọi sắc thái biểu cảm, So sánh tu từ còn là phương thức bộc lộ tâm tư tình cảm một cách kín đáo và tế nhị. Nhờ những hình ảnh bóng bẩy, ướt lệ, dùng cái này để đối chiếu cái kia nhằm diễn tả những ngụ ý nghệ thuật mà so sánh tu từ được sử dụng phổ biến trong thơ ca, đặc biệt là thơ viết cho thiếu nhi. So sánh giúp các em hiểu và cảm nhận được những bài thơ, bài văn hay, từ đó góp phần mở mang tri thức làm phong phú về tâm hồn, tạo hứng thú khi viết văn, rèn luyện ý thức, yêu quý tiếng Việt giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt cho học sinh.
Do khả năng tư duy của học sinh còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn giản, trực quan nên việc cảm thụ nghệ thuật tu từ so sánh còn hạn chế, phần lớn học sinh chỉ mới biết một cách cụ thể nghĩa của từ nên khi tiếp thu về nghệ thuật so sánh tu từ rất khó khăn. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên cần hướng dẫn một cách tỉ mỉ, thực tế. Điều đó khiến tôi luôn trăn trở, suy nghĩ: Làm thế nào? Bằng cách nào để khơi gợi ở học sinh hứng thú, say mê học tập môn Luyện từ và câu. Vì thế đây là vấn đề tôi băn khoăn, trăn trở, khiến tôi tiến hành nghiên cứu và thực nghiệm đề tài “Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu”
- Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
Như chúng ta đã biết Tiếng Việt vừa là môn học chính vừa là công cụ giúp học sinh tiếp thu các môn học khác, là bước khởi động, là cánh cửa để dẫn dắt người học khai thác những giá trị của câu, từ. Đồng thời còn giúp học sinh có thể hình thành và phát triển các kĩ năng giao tiếp trong môi trường hoạt động của các em. Đó là kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Ngôn ngữ gắn liền với tư duy nên thông qua việc dạy và học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy.
Góp phần giúp học sinh củng cố lý thuyết về cách dùng từ so sánh, từ đó học sinh biết phân biệt, biết cách so sánh hình ảnh trong thơ văn.
Giúp học sinh tiếp cận kịp thời với sách giáo khoa đồng thời giúp giáo viên có được các phương pháp rèn luyện học sinh kỹ năng sử dụng biện pháp so sánh ở lớp 3.
Góp phần giúp học sinh lóp 3 học tốt hơn nữa phân môn Luyện từ và câu trong môn Tiếng Việt. Học sinh có hứng thú học tập phân môn Luyện từ và câu, từ đó giúp các em học tốt các phân môn khác như phân môn Tập làm văn, Kể chuyện… và biết áp dụng vào thực tế cuộc sống.
Các em có thể nhận diện (tìm) những sự vật được so sánh, hình ảnh so sánh, các vế so sánh, từ chỉ so sánh, đặc điểm so sánh được nói đến trong câu (đoạn văn), thơ hoặc văn bản nhưng mới chỉ cảm nhận một cách chung chung. Các em sẽ gặp khó khăn khi vận dụng đặt câu (nói, viết) có dùng phép so sánh, tìm từ, đặt câu, phép nhân hóa… vì vốn từ còn ít chưa có thói quen và chưa biết cách quan sát, nhận xét sự vật, hiện tượng để tìm ra những đặc điểm giống nhau. Bởi vậy câu văn của các em chỉ mang nội dung thông báo chứ chưa có sức gợi cảm, gợi tả.
Điều cốt yếu với mọi tiết Luyện từ và câu là cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng tìm từ, dùng từ đặt câu cho học sinh. Học sinh phải giải nghĩa được một số từ ngữ đơn giản, so sánh được các sự vật trong tranh hoặc bằng câu hỏi.
Do đặc thù của lớp, nhà trường, địa phương hay gọi cách khác là vùng miền. Đối tượng học sinh thuộc nhiều tỉnh thành, nhiều miền dẫn đến tiếng nói, phát âm, trình bày khác nhau. Với lại đối tượng nhận thức của các em không đồng đều, thêm vào đó các em chưa thực sự quan tâm, yêu thích môn Luyện từ và câu hoặc chưa nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của môn học. Đứng trước thực tế đó tôi nhận thấy nhiệm vụ mỗi giáo viên chúng ta phải thường xuyên nghiên cứu, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của từng đối tượng học sinh để vận dụng phương pháp giảng dạy phù hợp nhằm mục đích cuối cùng là các em ngày càng yêu thích môn Luyện từ và câu, áp dụng làm bài tập tốt hơn, là cơ sở để học tốt các môn học khác.
- Đối tượng nghiên cứu.
Kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh
- Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Biện pháp so sánh trong môn Luyện từ và câu lớp 3
Học sinh lớp 3A, trường Tiểu học Krông Ana, huyện Krông Ana, tỉnh Đăk Lăk, năm học …………..
- Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp trò chuyện với học sinh, giáo viên.
- Phương pháp khảo nghiệm thực tiễn giảng dạy.
- PHẦN NỘI DUNG
- Cơ sở lý luận
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, sự phát triển Công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước cần phải có những con người năng động, sáng tạo, tự lực, tự cường. Nhu cầu này đòi hỏi phải có sự điều chỉnh mục tiêu, nội dung Chương trình cấp Tiểu học một cách phù hợp.
Mục tiêu của giáo dục Tiểu học đặt ra là: “Giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, phẩm chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”.
Ngôn ngữ nói chung, tiếng Việt nói riêng có quan hệ mật thiết với phương pháp dạy học Tiếng Việt. Ngôn ngữ bao gồm một hệ thống, bao gồm các bộ phận ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Mỗi bộ phận của ngôn ngữ là một hệ thống nhỏ, có cơ cấu tổ chức riêng, có quan hệ chặt chẽ với nhau trong hệ thống ngôn ngữ. Môn Tiếng Việt là một trong những bộ môn cơ bản của nhà trường phổ thông nên phải thực hiện theo nguyên tắc giáo dục học. Bởi vậy nguyên tắc dạy học Tiếng Việt phải cụ thể hóa mục tiêu và các nguyên tắc dạy học nói chung vào bộ môn của mình. Như vậy mục tiêu của việc dạy và học Tiếng Việt nằm trong mục tiêu chung của giáo dục nước ta trong giai đoạn mới hiện nay: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, nhằm hình thành đội ngũ lao động có tri thức, có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động sáng tạo.
Luyện từ và câu là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn Tiếng Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức tổng họp từ nhiều phân môn trong môn Tiếng Việt. Để làm được các bài tập không những học sinh phải sử dụng cả bốn kĩ năng: nghe – nói – đọc – viết mà còn phải vận dụng các kĩ năng về tiếng Việt, về cuộc sống thực tiễn.
Phân môn Luyện từ và câu rèn cho học sinh sử dụng từ, sử dụng câu trong các tình huống khác nhau trong quá trình lĩnh hội các kiến thức khoa học, góp phần dạy học sinh sử dụng tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt. Vì vậy Luyện từ và câu là phân môn có tính khởi đầu, có liên quan mật thiết đến các môn học khác.
Trong quá trình dạy một tiết Luyện từ và câu, để đạt mục tiêu đề ra ngoài phương pháp của thầy, học sinh cần phải có vốn kiến thức ngôn ngữ về đời sống thực tế. Chính vì vậy, việc dạy tốt các phân môn khác không chỉ là nguồn cung cấp kiến thức mà còn là phương tiện rèn kĩ năng nói, viết và cách diễn đạt câu văn cho học sinh. Học tốt Luyện từ và câu sẽ giúp học sinh học tốt các môn học khác, đồng thời giáo dục các em những tình cảm lành mạnh, trong sáng; rèn luyện khả năng giao tiếp, kỹ năng sống và góp phần đắc lực vào việc giữ gìn, phát huy sự trong sáng của tiếng Việt, hình thành nhân cách con người Việt Nam.
- Thực trạng
-
- Thuận lợi, khó khăn:
- Thuận lợi:
- Luôn được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Phòng GD&ĐT Krông Ana; Lãnh đạo nhà trường, của các tổ chuyên môn đã có vai trò tích cực giúp giáo viên đi đúng nội dung, chương trình phân môn Luyện từ và câu.
- Học sinh lớp 3 giai đoạn này rất ham học, đặc biệt hơn lứa tuổi này các em không còn bỡ ngỡ trước môi trường học tập thật sự như ở các lớp học trước, quan trọng là ở lớp 3 các em đã được trang bị một lượng kiến thức ở lớp 2, đã nắm vững kiến thức, kĩ năng mà các thầy cô giáo trước đó đã trang bị. Đây là cơ sở giúp cho các em học tốt phân môn Luyện từ và câu lớp 3.
- Đa số các em có ý thức trong việc học, có chuẩn bị bài khá chu đáo trước khi đến lớp, một số em đã biết dùng từ đặt câu, diễn đạt tương đối lưu loát.
- Đời sống kinh tế của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao nên việc đầu tư cho con cái học tập cũng có những thuận lợi nhất định.
* Khó khăn:
Tiếng Việt là môn học khó, nhất là phân môn Luyện từ và câu đòi hỏi người giáo viên phải có kiến thức sâu rộng, phong phú. cần phải có vốn sống thực tế, người giáo viên biết kết hợp linh hoạt các phương pháp trong giảng dạy, biết gợi mở óc tò mò, khả năng sáng tạo, độc lập ở học sinh, giúp cho các em hiểu nghĩa từ, so sánh ngôn ngữ quả không dễ.
Các bài tập thường là những bài tập trừu tượng, giáo viên phải hướng dẫn mẫu một phần bài tập, học sinh phải biết tư duy để làm được các phần bài tập còn lại. Trong các môn tự nhiên, Toán được coi là môn học khó thì trong các môn xã hội thì phân môn Luyện từ và câu lại được coi là phân môn vừa khô vừa khó. Đây là phân môn cả người dạy và người học cảm thấy khó khăn khi truyền đạt cũng như khi lĩnh hội kiến thức.
Trước tình trạng trên giáo viên phải kịp thời thức tỉnh, hình thành cho các em biết cách dùng từ đặt câu, hiểu nghĩa từ, tìm các từ so sánh…
Thêm một thực tế nữa là các loại sách tham khảo tràn lan trên thị trường như: Để học tốt phân môn Luyện từ và câu; Giúp em học giỏi Luyện từ và câu lớp 3; …thế là các em chỉ mất một khoản tiền không lớn là có thể ung dung chép vào vở nếu cần, mà không phải mất quá nhiều thời gian và suy nghĩ đau đầu nữa. Chứ các em có ngờ việc làm đó dẫn đến hậu quả lớn, nó làm cho não bộ của các em ít phát triển dần dần trở nên lười nhác.
- Thành công, hạn chế
- Thành công
Đa phần các em có khả năng nhận biết các kiểu câu đã học ở lóp 2, dùng từ đặt câu, biết được những hình ảnh so sánh dựa vào tranh ảnh hoặc câu hỏi gợi ý ngày một tiến bộ rõ rệt trong nhận thức, trong bài tập kể cả khi trình bày bằng lời.
- Hạn chế
Các từ cần giải nghĩa đa số là từ Hán Việt nên học sinh khó hiểu, khó giải nghĩa.
Các từ, các thành ngữ, tục ngữ cần giải nghĩa, cần tìm có nghĩa gần giống nhau, khiến cho học sinh khó phân biệt nghĩa của chúng.
Ranh giới giữa các cụm từ hoặc từ trong tiếng Việt không mang tính xác định,
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 7
- 153
- 1
- [product_views]
- 8
- 182
- 2
- [product_views]
- 0
- 136
- 3
- [product_views]
- 3
- 111
- 4
- [product_views]
- 8
- 186
- 5
- [product_views]
- 5
- 156
- 6
- [product_views]
- 4
- 169
- 7
- [product_views]
- 3
- 167
- 8
- [product_views]
- 4
- 199
- 9
- [product_views]
- 8
- 134
- 10
- [product_views]