Một số phương pháp dạy học môn Đạo đức lớp 3 hiệu quả cho học sinh 3 (Bộ sách Cánh diều)

Giá:
200.000đ
Môn: Đạo đức
Lớp: Lớp 3
Bộ sách:
Lượt xem: 332
Lượt tải: 4
Số trang: 19
Tác giả: Trần Thị Hồng Phúc
Trình độ chuyên môn: Cử nhân đại học
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nguyễn Văn Tố
Năm viết: 2022-2023
Số trang: 19
Tác giả: Trần Thị Hồng Phúc
Trình độ chuyên môn: Cử nhân đại học
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nguyễn Văn Tố
Năm viết: 2022-2023

Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Một số phương pháp dạy học môn Đạo đức lớp 3 hiệu quả cho học sinh 3 (Bộ sách Cánh diều)” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:

1. Giáo viên cần xác định rõ mục tiêu từng hoạt động của tiết dạy để lựa chọn phương pháp cho phù hợp.
2. Khi xây dựng thiết kế bài dạy, giáo viên phải hiểu dụng ‎ý của từng bài tập trong sách giáo khoa để lựa chọn phương pháp thích hợp.
3. Tổ chức các hoạt động dạy học phải thiết thực, linh hoạt, không mang tính hình thức; biết phối hợp các phương pháp truyền thống và hiện đại.
4. Tổ chức và lựa chọn phương pháp phù hợp với đối tượng học sinh trong lớp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong tiết học.
5. Tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp ( NGLL) theo chủ đề nhằm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
6. Phối hợp với phụ huynh để giáo dục tình cảm, thái độ cho học sinh thông qua các bài học đạo đức.

Mô tả sản phẩm

1. MỞ ĐẦU

1.1. Lý do chọn đề tài:

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29- NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH- HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Để thực hiện mục tiêu của Nghị quyết, Giáo dục phổ thông nói chung và Giáo dục Tiểu học nói riêng đã có nhiều chuyển biến về nhận thức, đổi mới phương pháp giảng dạy và cách đánh giá học sinh. Để nâng cao chất lượng giáo dục học sinh toàn diện, ngoài việc truyền thụ kiến thức, kĩ năng cho học sinh thì công tác giáo dục, bồi dưỡng năng lực và phẩm chất đạo đức cho các em là một vấn đề hết sức quan trọng được toàn xã hội quan tâm.

Muốn thực hiện được mục tiêu đó, cần được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và của các ngành, các cấp. Trong đó, ngành Giáo dục là một trong những ngành chủ chốt, nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ của đất nước vừa có tri thức và có phẩm chất đạo đức tốt. Do đó việc đầu tư vào ngành giáo dục là quốc sách hàng đầu không thể thiếu được qua mọi thời đại. Ở bậc Tiểu học, tất cả các môn học thì môn nào cũng quan trọng, nhưng riêng đối với môn Đạo đức là môn học hết sức cần thiết đối với lứa tuổi học sinh Tiểu học. Vì đạo đức là “Cái gốc” của con người. Khi sinh thời Bác Hồ đã dạy: “Người có tài mà không có đức là người vô dụng, người có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó “. Ngày nay Đảng và Nhà nước ta cũng rất coi trọng việc giáo dục đạo đức trong trường học đối với học sinh mà định hướng cơ bản được thể hiện qua mục tiêu của giáo dục là: “Giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người có tri thức vững vàng, có cơ thể khỏe mạnh và một tâm hồn trong sáng”. Bởi môn Đạo đức góp phần làm cho học sinh thành con người có nhân cách phát triển toàn diện như: Hình thành và rèn luyện nề nếp ngay tuổi còn nhỏ, phong cách và tác phong làm việc khoa học, giáo dục ý chí những đức tính tốt. Nhằm xây dựng ý thức đạo đức (có tri thức đạo đức và niềm tin đạo đức) … Để các em có những phẩm chất đạo đức quan trọng của công dân Việt Nam.

Nội dung môn Đạo đức ở Tiểu học chính là các chuẩn mực hành vi đạo đức được thể hiện trong các bài đạo đức. Việc hình thành các chuẩn mực hành vi đạo này cần có sự phối hợp nhiều phương pháp và vận dụng các hình thức dạy học trong môn Đạo đức một cách thích hợp và hiệu quả.

Lựa chọn phương pháp và hình thức dạy học cho mỗi bài, cho mỗi hoạt động là những hoạt động sáng tạo của mỗi giáo viên trong quá trình lên lớp. Nhưng thực tế dạy học cho thấy, cùng một nội dung dạy học như nhau nhưng học sinh có hứng thú, có tích cực học tập hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào việc vận dụng các phương pháp và hình thức dạy học của người thầy có phù hợp không. Do đó, việc lựa chọn và vận dụng các phương pháp và hình thức dạy học trong dạy học môn Đạo đức là hết sức quan trọng và cần thiết. Vấn đề này càng có ý nghĩa đối với học sinh các lớp Một, lớp Hai và lớp Ba. Nội dung môn học Đạo đức ở Tiểu học có tính đồng tâm nên các chuẩn mực hành vi đạo đức ở lớp 3 phản ánh các chuẩn mực hành vi đạo đức cần thiết nhất, phù hợp với lứa tuổi trong các mối quan hệ của các em với bản thân, với gia đình, nhà trường, cộng đồng và môi trường tự nhiên. Xuất phát từ kinh nghiệm thức tế giảng dạy của bản thân trong những năm qua, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Đạo đức trong trường Tiểu học, giúp giáo viên có thêm kinh nghiệm  trong việc lựa chọn phương pháp và hình thức dạy học môn Đạo đức tôi đã chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm lựa chọn phương pháp dạy học môn Đạo đức lớp 3 hiệu quả, nhằm nâng cao chất lượng học tập cho học sinh”.

1.2. Mục đích nghiên cứu:

Môn Đạo đức ở trường Tiểu học nhằm giúp học sinh:

– Có hiểu biết ban đầu về một số chuẩn mực hành vi đạo đức và pháp luật phù hợp với lứa tuổi học sinh lớp 3 trong mối quan hệ giữa các em với bản thân, gia đình, nhà trường, cộng đồng, xã hội. Môi trường tự nhiên và ý nghĩa của việc thực hiện theo các chuẩn mực đó.

– Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Đạo đức có hiệu quả.

1.3. Đối tượng nghiên cứu:

– Tài liệu dạy học môn đạo đức lớp 3. Các phương pháp dạy học .

– Tập thể học sinh lớp 3…. – Trường Tiểu học ……

1.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:

Nghiên cứu lí luận: Nghiên cứu tài liệu và sách môn Đạo đức 3.

1.5. Phương pháp nghiên cứu:

– Phương pháp nghiên cứu bằng điều tra, quan sát.

– Phương pháp tổng kết kinh nghiêm

– Phương pháp thực nghiệm thống kê kết quả .

2. NỘI DUNG

2.1.Cơ sở lý luận:

2.1.1.Mục tiêu của môn Đạo đức ở Tiểu học:

Môn Đạo đức ở Tiểu học hình thành những cơ sở ban đầu các phẩm chất đạo đức cho học sinh theo 3 mục tiêu: Kiến thức, kĩ năng và thái độ, tình cảm.

a.Về kiến thức:

Môn Đạo đức cung cấp cho học sinh có hiểu biết ban đầu  về một số chuẩn mực hành vi đạo đức và pháp luật phù hợp với lứa tuổi học sinh lớp 3 trong các  mối quan hệ của các em với lời nói, việc làm của  bản thân, với những người thân trong gia đình, với bạn bè và công việc của lớp, của trường, với Bác Hồ và những người có công với đất nước, với dân tộc; Với hàng xóm láng giềng; Với bạn bè quốc tế; với cây trồng, vật nuôi và nguồn nước. Bước đầu giúp các em phân biệt được các đúng – cái sai, cái tốt – cái xấu, cái thiện – cái ác, … để từ đó định hướng cho các các em theo cái đúng, cái tốt, cái thiện và tránh xa những biểu hiện sai trái, xấu xa, độc ác.

  1. Về kĩ năng:

Môn Đạo đức từng bước hình thành kĩ năng nhận xét, đánh giá đối với những quan niệm, hành vi, việc làm có liên quan đến các chuẩn mực đạo đức đã học; Kĩ năng lựa chọn và thực hiện các hành vi, hình thành và bồi dưỡng cho các em cảm xúc đạo đức, giúp các em có các cách ứng xử phù hợp theo những chuẩn mực đạo đức đã được quy định, trên cơ sở đó hình thành những chuẩn mực đạo đức trong sáng .

  1. Về tình cảm, thái độ:

Từng bước hình thành thái độ có trách nhiệm với lời nói, việc làm của bản thân; Tự tin vào khả năng của bản thân, yêu thương ông bà, cha mẹ, anh chị em và bạn bè; Biết ơn Bác Hồ và các thương binh, liệt sĩ; Quan tâm, tôn trọng mọi người; Đoàn kết, hữu nghị với thiếu nhi quốc tế; Có ý thức bảo vệ cây trồng, vật nuôi và nguồn nước.

Ba mục tiêu này của môn Đạo đức có quan hệ khăng khít với nhau. Kiến thức đạo đức là tiền đề, là cơ sở cho việc hình thành thái độ, tình cảm và thói quen, hành vi đạo đức. Ngược lại, thái độ, tình cảm và thói quen, hành vi sẽ củng cố, khẳng định kiến thức đạo đức của các em. Giải quyết tốt ba mục tiêu này, chúng ta đã bước đầu hình thành được cơ sở ban đầu của phẩm chất đạo đức cho học sinh Tiểu học.

2.1.2. Mục tiêu môn Đạo đức lớp 3 được xác định cụ thể như sau:

  1. Về kiến thức:

Học sinh có hiểu biết ban đầu về một số chuẩn mực đạo đức và pháp luật phù hợp với lứa tuổi trong mối quan hệ của các em:

 – Quan hệ  với bạn thân.

 – Quan hệ với gia đình.

 – Quan hệ với nhà trường.

 – Quan hệ với cộng đồng xã hội.

 – Quan hệ với môi trường tự nhiên.

  1. Về kĩ năng:

Từng bước hình thành cho học sinh một số kĩ năng sống cơ bản: Kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng bày tỏ ý kiến bản thân, biết nhận xét đánh giá các quan niệm, hành vi, việc làm có liên quan đến các chuẩn mực hành vi đã học, có kĩ năng lựa chọn các cách ứng xử phù hợp chuẩn mực trong các tình huống và biết thực hiện các chuân mực đã học trong cuộc sống hàng ngày.

  1. Về tình cảm, thái độ:

Giáo dục bổn phận, trách nhiệm của học sinh đối với gia đình, nhà trường, xã hội, môi trường tự nhiên; Giáo dục học sinh có trách nhiệm đối với chính bản thân, biết quý trọng bản thân, biết tự chăm sóc bản thân, có trách nhiệm đối với hành vi việc làm của bản thân. Có tình yêu ông bà, cha mẹ, những người thân; Kính trọng người già, thương yêu em nhỏ, kính trọng biết ơn thầy cô, biết thông cảm, chia sẻ với những người khó khăn, biết hợp tác với bạn bè; Biết vượt khó vươn lên trong học tập; Có ý thức tôn trọng và thực hiện luật giao thông; Có ý thức tôn trọng bảo vệ các công trình công cộng, yêu thiên nhiên, có ý thức bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, …

2.1.3. Các phương pháp dạy học đạo đức lớp 3.

Các phương pháp dạy học môn Đạo đức ở Tiểu học nói chung và ở lớp 3 nói riêng rất phong phú và đa dạng. Nó bao gồm các phương pháp dạy học truyền thống và các phương pháp hiện đại. Cụ thể là:

Các phương pháp truyền thống Các phương pháp hiện đại
– Phương pháp kể chuyện.    

– Phương pháp đàm thoại.

– Phương pháp nêu gương.                                                        

– Phương pháp trực quan.      

– Phương pháp khen thưởng ..v..v..                              

– Phương pháp đóng vai.

– Phương pháp thảo luận nhóm.

– Phương pháp tổ chức trò chơi.

– Phương pháp xử lý tình huống.

– Phương pháp dự án..v..v ..

Mỗi phương pháp dạy học đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định, không có phương pháp nào là vạn năng. Phải tùy từng bài học, từng hoạt động cụ thể mà giáo viên lựa chọn phương pháp dạy học một cách linh hoạt, phù hợp với đối tượng học sinh. Và điều thiết yếu là phải làm cho học sinh hứng thú và tích cực, chủ động tham gia vào quá trình học tập và học tập một cách có hiệu quả.

2.2. Thực trạng của việc dạy môn Đạo đức hiện nay.

Trường Tiểu học …….. là trường đạt Chuẩn Quốc gia. Nhà trường có truyền thống “Dạy tốt – Học tốt”, có sức thu hút rất lớn đối với học sinh trên địa bàn thành phố và các phường lân cận. Nhà trường có nhiều thành tích trong hoạt động dạy học, nhiều năm được UBND Tỉnh, Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen, tặng Cờ thi đua xuất sắc, được Nhà nước tặng Huân chương Lao động hạng Nhì (năm 2016)…

Nhà trường có đội ngũ giáo viên khá vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, có kinh nghiệm trong dạy học. Đặc biệt có sự chỉ đạo chặt chẽ của ban giám hiệu nên đội ngũ giáo viên tiếp cận nhanh chóng với phương pháp dạy học đổi mới ở tất cả các môn học nói chung và môn Đạo đức nói riêng. Việc vận dụng các phương pháp dạy học môn Đạo đức cũng được các tổ khối chuyên môn trao đổi, thảo luận. Bước đầu, giáo viên cũng đã vận dụng tương đối có hiệu quả việc lựa chọn, vận dụng các hình thức và phương pháp dạy học đạo đức trong quá trình lên lớp, học sinh nhà trường thích ứng nhanh với các nội dung, phương pháp học tập mới. Các nội dung, kiến thức và kĩ năng hành vi của học sinh đều đạt yêu cầu, trong đó tỉ lệ học sinh đạt yêu cầu ở mức độ cao càng tăng. Song, với yêu cầu ngày càng cao việc đổi mới phương pháp dạy học cũng như khả năng nhận thức, tiếp cận nhanh chóng của học sinh nhà trường, tôi vẫn băn khoăn, trăn trở về  việc dạy học đạo đức. Qua việc dự giờ thao giảng của giáo viên trong trường và quá trình dạy học môn Đạo đức của bản thân, tôi nhận thấy việc vận dụng các hình thức và phương pháp dạy học Đạo đức trong quá trình lên lớp của giáo viên vẫn còn những bất cập, còn những vướng mắc cần được tháo gỡ, cần được điều chỉnh để có kết quả tốt hơn. Trong giảng dạy, có hoạt động lẽ ra cần được sử dụng phương pháp hỏi đáp để  phát huy tính độc lập của từng học sinh thì  giáo viên lại dùng phương pháp Đóng vai hoặc Thảo luận nhóm. Có giáo viên còn nhầm tưởng cứ sử dụng các phương pháp hiện đại như Thảo luận nhóm, Đóng vai, đóng Tiểu phẩm… thì mới tốt, mới thu hút học sinh. Nhưng thực ra họ đã vô tình làm phức tạp hóa các hoạt động, vừa làm mất thời gian mà hiệu quả lại không cao. Sau khi đánh giá phân tích, tôi đã trao đổi với giáo viên trong khối, tìm ra các lỗi cơ bản của giáo viên trong quá trình dạy học đạo đức như sau:

Một là: Khi xây dựng thiết kế bài học, chưa xác định rõ mục tiêu của từng hoạt động trong tiết dạy nên việc lựa chọn các phương pháp dạy học ở một vài hoạt động chưa phù hợp.

 Hai lài: Chưa hiểu hết dụng ý của từng bài tập trong sách giáo khoa và sách giáo viên .

Ba là: Tổ chức một số hoạt động còn mang tính chất hình thức, chưa hiệu quả  do chưa hiểu ý nghĩa của hoạt động đó .

2.3. Các giải pháp tổ chức thực hiện.

2.3.1. Giáo viên cần xác định rõ mục tiêu từng hoạt động của tiết dạy để lựa chọn phương pháp cho phù hợp.

Ngoài việc xác định mục tiêu bài học, giáo viên cần xác định mục tiêu từng hoạt động cụ thể. Trong một bài học, mỗi hoạt động có một mục tiêu riêng và là một mục tiêu nhỏ của bài học. Mục tiêu hoạt động chính là cái đích cần đạt của hoạt động đó. Mục tiêu hoạt động sẽ chi phối việc lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động. Hiện nay, sách Đạo đức dành cho giáo viên lớp 3 có xác định mục tiêu từng hoạt động. Song giáo viên cần  xác định mục tiêu cho mỗi hoạt động của tiết dạy cụ thể, phù hợp để không ảnh hưởng tới việc lựa chọn phương pháp dạy học cho từng hoạt động. Vì vậy trong các buổi sinh hoạt chuyên môn khối 3, chúng tôi đã cùng giáo viên trong khối thống nhất xác định mục tiêu từng hoạt động cho mỗi tiết học Đạo đức ở lớp 3 mà không phụ thuộc sách giáo viên. Từ việc xác định mục tiêu hoạt động để giáo viên lựa chọn phương pháp dạy học cho hoạt động đó một cách thích hợp, đồng thời hướng học sinh vào hoạt động một cách tích cực.

Ví dụ: Bài 3: Em quan tâm hàng xóm láng giềng  (trang 18 Đạo đức 3 bộ sách Cánh diều), Tôi đã xây dựng kế hoạch bài dạy với việc xác định rõ mục tiêu cho từng hoạt động như sau:

Hoạt động 1: Học sinh kể về sự quan tâm, chăm sóc của hàng xóm, láng giềng dành cho mình. ( Thảo luận nhóm )

Mục tiêu: Học sinh cảm nhận được những tình cảm và sự quan tâm, chăm sóc mà mọi người hàng xóm, láng giềng đã dành cho em, hiểu được giá trị của quyền được sống chan hòa, tốt đẹp với những người hàng xóm, láng giềng.

Hoạt động 2: Kể chuyện: Chú hàng xóm tốt bụng

Mục tiêu: Học sinh biết được những hành động tốt bụng, chu đáo của những người hàng xóm, láng giềng đến với bản thân mình. 

Hoạt động 3: Đánh giá hành vi

Mục tiêu: Học sinh bước dầu biết phân biệt các hành vi, việc làm đúng và chưa đúng trong việc hòa đồng, vui vẻ với hàng xóm, láng giềng.

Hoạt động 4: Tự liên hệ

Mục tiêu: Học sinh tự liên hệ bản thân  kể việc làm hàng ngày thể hiện sự quan tâm, hòa đồng với mọi người hàng xóm, láng giềng của mình .

Hoạt động nối tiếp:

– Sưu tầm các tranh ảnh, bài thơ, bài hát, ca dao, tục ngữ, các câu chuyện, …về tình cảm đoàn kết, tốt đẹp của những người hàng xóm, láng giềng với nhau.

– Mỗi học sinh vẽ ra giấy một hàng động mà em cho rằng nó thể hiện tình cảm tốt đẹp, chan hòa giữa mọi người hàng xóm với nhau.

2.3.2. Khi xây dựng thiết kế bài dạy, giáo viên phải hiểu dụng ‎ý của từng bài tập trong sách giáo khoa để lựa chọn phương pháp thích hợp.

Hiểu dụng ‎ý từng bài tập trong sách khoa là hết sức cần thiết. Sách giáo khoa là cơ sở cho giáo xây dựng thiết kế bài dạy. Đương nhiên là giáo viên có thể sáng tạo trong việc các bài tập cho từng hoạt động. Có thể chọn bài tập sách giáo khoa hoặc không để phù hợp với đối tượng, phù hợp hoàn cảnh từng địa phương. Song, có thể khẳng định các bài tập trong sách giáo khoa là cơ sở ban đầu cho việc lựa chọn, là định hướng rất cần thiết cho mỗi giáo viên. Qua việc trao với anh chị em trong tổ khối, tôi nhận thấy đa số giáo viên lựa chọn với sách giáo khoa. Song  khi thực hiện tôi chú ‎ một số yêu cầu sau:

– Đọc kĩ nội dung và yêu cầu từng bài tập.

– Xác định mục tiêu của từng bài tập trong hoạt động đó.

– Xác định xem bài tập đó có phù hợp đối tượng học sinh của lớp mình hay không? (Sách giáo khoa soạn chung cho cả nước  nên không phải sẽ phù hợp tất cả vùng miền và mọi đối tượng học sinh).

– Chọn phương pháp dạy học nào cho thích hợp nội dung bài tập đó.

– Các đồ dùng dạy học cần thiết khi sử dụng bài tập này.

Ví dụ: Khi tôi dự giờ đồng nghiệp dạy bài 10: Em xử lý bất hòa với bạn  (trang 49 Đạo đức 3 bộ sách Cánh diều), có nội dung: Em hãy viết chữ Đ vào ô trống trước các việc làm đúng và chữ S trước các việc làm sai đối với bạn bè.

  1. Im lặng, không cãi nhau, tạm dừng cuộc tranh cãi.
  2. Bình tình, làm rõ nguyên nhân bất hòa để hiểu nhau, thông cảm và bỏ qua cho nhau.
  3. Tìm đến thầy cô, cha mẹ và người lớn để nhờ giải quyết giúp.
  4. Tranh luận đến cùng cho ra lẽ, xem ai đúng, ai sai.
  5. Bảo vệ ý kiến của mình bằng mọi cách khi đã bất hòa.

Với bài tập này, theo tôi, chỉ cần cho học sinh hoạt động cá nhân bằng cách lựa chọn rồi viết chữ Đ vào  trước việc em cho là đúng; Viết chữ S trước việc làm em cho là sai; Giáo viên cho học sinh báo cáo kết quả. Sau đó cho lớp thảo luận chung về cách lựa chọn của bạn rồi nói lí do em viết Đ hoặc S trước việc làm đó, giáo viên kết luận.

Nhưng do chưa hiểu dụng ‎ý sách giáo khoa, một giáo viên đã tiến hành như sau:

– Cho học sinh đọc yêu cầu bài tập.

– Thảo luận nhóm đôi.

– Báo cáo kết quả các nhóm.

– Giáo viên kết luận.

– Giáo viên chất vấn các nhóm nêu lí do em cho việc làm đó đúng, sai?

Như vậy, giáo viên đã làm phức tạp vấn đề. Việc thảo luận nhóm ở đây là không cần thiết, mất thời gian vì học sinh có thể làm việc cá nhân để chọn được việc làm Đ, việc làm sai. Việc cho học sinh thảo luận nhóm là  không cần thiết  và trở nên nhàm chán vì hoạt động đó đã không còn thích hợp. Tôi đã trực tiếp trao đổi và rút kinh nghiệm trong tổ chuyên môn, cùng mọi người tìm phương pháp hợp lý và hiệu quả hơn.

Đối với các bài tập yêu cầu bày tỏ ‎ kiến, thái độ, do chưa hiểu dụng ý‎ ‎sách giáo khoa, có giáo viên đã cho học sinh thảo luận nhóm rồi cho mỗi nhóm báo cáo kết quả. Như vậy vô tình giáo viên đã không nắm bắt được nhận thức của từng học sinh, mỗi cá nhân chưa được bày tỏ ‎ kiến thái độ của mình trước các ‎ kiến đã nêu trong bài tập. Dù học sinh có được thảo luận nhóm thì ‎kiến của nhóm là ‎kiến chung, mang tính tập thể. Hơn nữa chúng ta cần hiểu rằng, chỉ tổ chức thảo luận nhóm khi cần có sự hợp tác của nhiều học sinh, các bài tập cần cho học sinh thảo luận. Đối với các bài tập có nội dung bày tỏ thái độ (Em tán thành với ‎ kiến nào dưới đây? Vì sao?…) thì cần phải cho học sinh hoạt động cá nhân để học sinh có dịp được bày tỏ kiến, thái độ của mình và giáo viên nắm bắt để điều chỉnh, bổ sung cho đúng và đầy đủ nhất.

Như vậy, việc hiểu dụng ‎‎ý các bài tập sách giáo khoa ở mỗi bài tập là hết sức cần thiết, là điều mỗi giáo viên cần nắm bắt được khi xây dựng thiết kế bài dạy môn Đạo đức. Có hiểu dụng ý ‎sách giáo khoa ở mỗi bài tập thì giáo viên mới lựa chọn được các phương pháp và hình thức dạy học thích hợp và hiệu quả.

2.3.3. Tổ chức các hoạt động dạy học phải thiết thực, linh hoạt, không mang tính hình thức; biết phối hợp các phương pháp truyền thống và hiện đại.

Chúng ta đã biết, mỗi hoạt động dạy học đều có một mục tiêu nhất định và góp phần thực hiện mục tiêu bài học. Người giáo viên phải chú trọng đến từng hoạt động dạy học và hiệu quả của các hoạt động đó trong tiết học. Muốn vậy, cần chú ‎ý tổ chức các hoạt động có hiệu quả, không mang tính hình thức. Song trong thực tế, một số giáo viên chưa làm được điều này, nhiều hoạt động dạy học vẫn mang tính hình thức. Khi xác định mục tiêu hoạt động, giáo viên còn lúng túng. Có giáo viên còn lạm dụng các phương pháp dạy học hiện đại. Hiện nay, giáo viên lại xem nhẹ các phương pháp truyền thống như: Nêu gương, khen thưởng. Có quan điểm cho rằng phương pháp dạy học hiện đại thì tốt hơn. Do đó, khi dự giờ đồng nghiệp, tôi thường thấy họ sử dụng nhiều các phương pháp hiện đại như: Đóng vai, thảo luận nhóm, Tiểu phẩm, …Có tiết học chỉ có 3 hoạt động thì giáo viên đã có 2 hoạt động sử dụng phương pháp Thảo luận nhóm, kể cả những nội dung đơn giản không cần sự hợp tác học sinh vẫn có thể giải quyết được. Vai trò cá nhân bị lu mờ và một số học sinh khá giỏi hoạt động hết công suất (hết kiểm tra bài cũ, trả lời câu hỏi lại làm nhóm trưởng chỉ đạo hoạt động nhóm lại báo cáo kết quả thảo luận, sắm vai,..). Trong khi đó một số học sinh yếu thì không có cơ hội tham gia các hoạt động học tập mà lẽ ra đối tượng này cần được thầy cô chú ý hơn trong tiết học.

Ví dụ: Khi dạy bài 3: Em quan tâm hàng xóm láng giềng (trang 18 Đạo đức 3 bộ sách Cánh diều), có giáo viên đã cho học sinh thảo luận nhóm trong  hoạt động như sau:

0/5 (0 Reviews)
0/5 (0 Reviews)

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

một số biện pháp giúp cho việc quản lí, bảo quản và sử dụng phòng tin học có hiệu quả ở trường tiểu học
3
Tin Học
4.5/5

Theo dõi
Thông báo của
guest
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Set your categories menu in Theme Settings -> Header -> Menu -> Mobile menu (categories)
Shopping cart

KẾT NỐI NGAY VỚI KIẾN EDU

Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe và đưa ra giải pháp phù hợp nhất cho vấn đề của bạn.

0886945229

Email

kienedu.com@gmail.com

Đây chỉ là bản XEM THỬ - khách hàng vui lòng chọn mua tài liệu và thanh toán để nhận bản đầy đủ

TẢI TÀI LIỆU

Bước 1: Chuyển phí tải tài liệu vào số tài khoản sau với nội dung: Mã tài liệu

Chủ TK: Ngô Thị Mai Lan

STK Agribank: 2904281013397 Copy
* (Nếu khách hàng sử dụng ngân hàng Agribank thì chuyển tiền vào STK Agribank để tránh bị lỗi treo giao dịch)
STK TPbank: 23665416789 Copy
tài khoản tpbank kienedu

Bước 2: Gửi ảnh chụp giao dịch vào Zalo kèm mã tài liệu để nhận tài liệu qua Zalo hoặc email

Nhắn tin tới Zalo Kiến Edu (nhấn vào đây để xác nhận và nhận tài liệu!)