SKKN Phát triển năng lực hợp tác và giải quyết vấn đề cho học sinh thông qua dạy học dự án chủ đề “Cảm ứng điện từ” vật lý 11 trung học phổ thông (THPT)

4.5/5

Giá:

100.000 đ
Cấp học: THPT
Môn: Vật lí
Lớp: 11
Bộ sách:
Lượt xem: 783
File:
TÀI LIỆU WORD
Số trang:
56
Lượt tải:

7

Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Phát triển năng lực hợp tác và giải quyết vấn đề cho học sinh thông qua dạy học dự án chủ đề “Cảm ứng điện từ” vật lý 11 trung học phổ thông (THPT)“ triển khai các biện pháp như sau: 

1 Dạy học nhằm phát huy năng lực hợp tác và giải quyết vấn đề
2 Dạy học dự án
3 Dạy học dự án nhằm phát huy năng lực hợp tác và giải quyết vấn đề
4 Dạy học dự án chủ đề “Cảm ứng điện từ” thuộc chương trình vật lý 11 cơ bản
5 Dạy học dự án chủ đề “Cảm ứng điện từ” thuộc chương trình vật lý 11 cơ bản nhằm phát huy năng lực hợp tác và giải quyết vấn đề

Mô tả sản phẩm

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Trong báo cáo của Bộ chính trị trình đại hội 12 của Đảng nêu rõ: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển. Ðổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ðẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời.”
Hiện nay phong trào đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy năng lực, phẩm chất của học sinh đang được phát động, hưởng ứng mạnh mẽ và là xu thế mới trong ngành giáo dục.
Một trong những phương pháp dạy học tích cực có thể đáp ứng tốt yêu cầu đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay đó là phương pháp dạy học dự án (thuật ngữ tiếng Anh: Project Based Learning, viết tắt PBL). Đó là một phương pháp dạy học bám sát quan điểm lấy học sinh làm trung tâm trong suốt quá trình dạy học, học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức theo mục tiêu đề ra và mỗi cá nhân học sinh còn có được kỹ năng phát hiện và giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin, kỹ năng tư duy bậc cao làm việc nhóm, giải quyết được các vấn đề trong cuộc sống, …nhưng người giáo viên vẫn đóng vai trò chủ đạo quan trọng.
Kể từ khi ra đời cho đến nay và cả trong tương lai, điện năng vẫn là lĩnh vực không thể thay thế trong sự phát triển của xã hội. Việc phát hiện và ứng dụng rộng rãi dòng điện vào đời sống, sản xuất và trong nền kinh tế đã chứng tỏ những ưu điểm vượt trội của loại năng lượng này so với các loại năng lượng trước đó. Nền móng của việc sản xuất điện năng hàng loạt chính là sự phát hiện ra hiện tượng “cảm ứng điện từ” của nhà khoa học Micheal Faraday. Công lao to lớn này đã được thể hiện qua câu nói nổi tiếng của nhà khoa học người Đức Hemhônxơ: “chừng nào loài người còn sử dụng điện, thì chừng đó mọi người còn ghi nhớ công lao của Micheal Faraday”.
Chủ đề “Cảm ứng điện từ” thuộc chương 5 của Vật lý 11 THPT bước đầu đã cho học sinh tiếp cận và nắm bắt được nguyên tắc để tạo ra dòng điện và các tác dụng của hiện tượng cảm ứng điện từ. Với các thiết bị thí nghiệm hiện có hoặc tự làm đơn giản, giáo viên có thể minh họa hiện tượng “cảm ứng điện từ” một cách trực quan. Qua đó giúp học sinh có thể nắm bắt được bản chất của hiện tượng. Với nền tảng kiến thức sẵn có và kinh nghiệm thực tế, bản thân học sinh cũng có thể tự tìm hiểu được nguyên lý làm việc của các ứng dụng này để khắc sâu hơn nội dung kiến thức.
Mặt khác, trong giai đoạn hiện nay, thông qua quá trình dạy học, ngoài việc
trang bị các kiến thức cần thiết cho học sinh, giáo viên còn phải hình thành và phát huy các phẩm chất và năng lực. Trong đó, hợp tác và giải quyết vấn đề là hai năng lực có vai trò rất quan trọng trong quá trình học sinh học tập, làm việc và thích nghi với môi trường sống.
Ý thức được tầm quan trọng của những dụng thực tế của nội dung kiến thức này, vừa giúp học sinh nắm được các kiến thức cơ bản, đồng thời có thể phần nào nắm được các ứng dụng thực tế của nội dung kiến thức theo hướng có thể phát huy tối đa sự hoạt động tìm tòi và sáng tạo của học sinh, qua đó giúp học sinh phát triển được các năng lực hợp tác và năng lực giải quyết vấn đề. Do đó chúng tôi chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm: Phát triển năng lực hợp tác và giải quyết vấn đề cho học sinh thông qua dạy học dự án chủ đề “Cảm ứng điện từ” vật lý 11 trung học phổ thông (THPT).
2. Mục tiêu nghiên cứu
Vận dụng dạy học dự án chủ đề “Cảm ứng điện từ” thuộc chương 5 vật lý 11 THPT đảm bảo yêu cầu khoa học, sư phạm và khả thi, từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn vật lý.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
– Đề tài nghiên cứu: Phát triển năng lực hợp tác và giải quyết vấn đề cho học sinh thông qua dạy học dự án chủ đề “Cảm ứng điện từ” vật lý 11 THPT.
– Học sinh các lớp 11 trường THPT Phan Đăng Lưu, Yên Thành
b. Phạm vi nghiên cứu
– Phạm vi không gian: Một số trường THPT trên địa bàn Yên Thành, tỉnh Nghệ An.
– Phạm vi thời gian: Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 10 năm 2022 đến tháng 2 năm 2023.
– Phạm vi nội dung: Phát triển năng lực hợp tác và giải quyết vấn đề cho học sinh thông qua dạy học dự án chủ đề “Cảm ứng điện từ” vật lý 11 THPT.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Tìm hiểu lý thuyết về dạy học dựa trên dự án (PBL).
4.2. Tìm hiểu thực trạng dạy học chủ đề “Cảm ứng điện từ” thuộc chương 5 vật lý 11 THPT ở các trường THPT ở địa bàn huyện Yên Thành – Nghệ An.
4.3. Tìm hiểu lý thuyết về năng lực hợp tác và giải quyết vấn đề.
4.4. Nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa, sách giáo viên, chuẩn kiến thức kĩ năng một số kiến thức chủ đề “Cảm ứng điện từ” thuộc chương 5 vật lý 11 THPT nhằm tạo cơ sở để xây dựng kế hoạch dạy học theo tinh thần dạy học dự án (PBL).
4.5. Xây dựng kế hoạch dạy học một số kiến thức chủ đề “Cảm ứng điện từ” thuộc chương 5 vật lý 11 THPT theo tinh thần dạy học dự án.
4.6. Thực nghiệm sư phạm để đánh giá tính khả thi, hiệu quả của phương án đã thiết kế từ đó điều chỉnh, bổ sung để hoàn thiện.
5. Những đóng góp mới của sáng kiến
– Hệ thống hoá, bổ sung lí luận về dạy học theo dự án ở bậc THPT nói chung cũng như đề xuất quy trình dạy học dự án trong dạy học Vật lý bậc THPT nói riêng và năng lực hợp tác và giải quyết vấn đề. Góp phần đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với chương trình giáo dục phổ thông 2018.
– Phân tích được thực trạng, đề xuất được các giải pháp nâng cao chất lượng dạy học theo dự án để phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học Vật lí ở trường THPT.
– Đề tài đã thực hiện soạn thảo tiến trình dạy học dự án một số kiến thức trong chủ đề “Cảm ứng điện từ” thuộc chương 5 vật lý 11 THPT theo quy trình, đã tiến hành dạy học thực nghiệm thực tế và thu được kết quả rất tích cực.
– Kết quả của đề tài này có thể làm tài liệu tham khảo cho giáo viên các trường THPT
Phần 2. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DẠY HỌC DỰ ÁN (PBL)
1.1. Tổng quan về PBL
Trong tiếng Anh, thuật ngữ “dự án” là “project”, có nguồn gốc từ tiếng Latinh là “proicere”, nghĩa là phác thảo, dự thảo, thiết kế.
Ngày nay, khái niệm dự án được hiểu theo nghĩa phổ thông là một đề án, một dự án, một dự thảo hay một kế hoạch.
Khái niệm dự án được sử dụng phổ biến trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội: sản xuất, kinh doanh, nghiên cứu khoa học và trong quản lý xã hội.
Qua thời gian, khái niệm dự án đã dần dần đi vào lĩnh vực giáo dục – đào tạo, không chỉ với ý nghĩa là các dự án phát triển giáo dục mà còn được sử dụng như hệ thống hay một hình thức dạy học. Khái niệm dự án được sử dụng trong các trường dạy học kiến trúc – xây dựng ở Ý từ cuối thế kỷ XVI. Từ đó tư tưởng PBL lan sang Pháp cũng như một số nước Châu Âu, Châu Mỹ, trước hết là trong các trường đại học và chuyên nghiệp.Có nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về dạy học theo dự án (PBL). PBL là chữ viết tắt bằng tiếng Anh của thuật ngữ Project based learning, nghĩa là dạy học theo tinh thần dự án.
Từ Châu Âu, tư tưởng PBL lan truyền sang Mỹ và các nhà sư phạm Mỹ xây dựng cơ sở lý luận cho phương pháp dự án (The project Method) và coi đó là phương pháp dạy học quan trọng để thực hiện quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm, nhằm khắc phục nhược điểm của dạy học truyền thống coi giáo viên là trung tâm. Ban đầu, phương pháp dự án được sử dụng trong dạy học thực hành các môn kỹ thuật, về sau được dùng trong hầu hết các môn học khác, kể cả các môn khoa học xã hội. Sau một thời gian phần nào bị lãng quên, ngày nay phương pháp dự án lại được vận dụng nhiều ở các nước có nền giáo dục phát triển như Singapor, Mỹ, Đức… Ở nước ta, phương pháp này đang được nghiên cứu vận dụng trong dạy học không chỉ ở các bậc đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp mà còn ở cả bậc trung học.
Có nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về dạy học dự án của nhiều tác giả:
+ Cách học dựa trên dự án (PBL) là một hoạt động học tập nhằm tạo cơ hội cho học sinh tổng hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực học tập và áp dụng một cách sáng tạo vào thực tế cuộc sống. Qua đó hình thành kỹ năng hợp tác, giao tiếp, phát triển tư duy và học tập độc lập, chuẩn bị hành trang cho các em trong sự nghiệp học tập suốt đời và đối mặt với các thử thách trong cuộc sống.
+ PBL là một mô hình dạy học lấy học sinh làm trung tâm, giúp học sinh phát triển kiến thức và các kỹ năng liên quan thông qua những nhiệm vụ mang tính mở, khuyến khích học sinh tìm tòi, hiện thực hóa những kiến thức đã học trong quá trình thực hiện và tạo ra sản phẩm của chính mình.
+ PBL là một kiểu dạy học lấy hoạt động của người học làm trung tâm. Quá trình giảng dạy luôn định hướng vào các khái niệm cơ bản của môn học nhưng gắn liền với thực tế. Theo phương pháp này, người học phải tự mình giải quyết các vấn đề và các nhiệm vụ có liên quan khác để có được kiến thức, khả năng giải quyết vấn đề và cho ra những kết quả thực tế.
Vậy, PBL một hình thức dạy học, trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, có tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện. Làm việc nhóm là hình thức cơ bản của PBL, có ứng dụng công nghệ thông tin, dưới sự hướng dẫn, hỗ trợ, cộng tác của giáo viên.
1.2. Nội dung của PBL
1.2.1. Cấu trúc của PBL
PBL được đặc trưng bởi một số hoạt động cơ bản như sau:
– Xác định mục tiêu dự án
– Thiết kế ý tưởng dự án
– Xây dựng bộ câu hỏi định hướng
– Lập kế hoạch thực hiện dự án
– Thực hiện dự án
– Đánh giá và tự đánh giá
1.2.1.1. Xác định mục tiêu dự án
Mỗi dự án luôn hướng tới một mục tiêu học tập cụ thể. Mục tiêu của dự án phải dựa vào chuẩn kiến thức và mục tiêu bài học do Bộ giáo dục và Đào tạo quy định, đồng thời kết hợp với mục tiêu giáo dục của địa phương cùng với phương hướng hoạt động của nhà trường.
Từ mục tiêu hoạt động của dự án, giáo viên lựa chọn nội dung thích hợp sao cho phù hợp với trình độ học sinh, đặc điểm từng lớp, cơ sở vật chất của nhà trường, môi trường thực hiện dự án cũng như các yếu tố về tài chính và thời gian thực hiện dự án để đảm bảo dự án có tính khả thi.
1.2.1.2. Thiết kế ý tưởng dự án
Một dự án có tính khả thi thường bắt nguồn từ một ý tưởng tốt. Các hoạt động học tập trong PBL được thiết kế mang tính thiết thực, liên quan đến nhiều lĩnh vực kiến thức, lấy người học làm trung tâm và gắn kiến thức nhà trường với những vấn đề thực tiễn của thế giới thực tại. Vì vậy giáo viên cần nhìn thấy những vấn đề trong cuộc sống xung quanh, nhất là các vấn đề có tính thời đại.
Xuất phát từ nội dung bài học, giáo viên đưa ra một chủ đề với những gợi ý hấp dẫn, thực sự có thể lôi cuốn học sinh, kích thích học sinh hứng thú tham gia thực hiện thông qua các hoạt động học tập như:
– Học thông qua việc phục vụ cộng đồng: Những dự án này thường gắn liền với cộng đồng địa phương và học sinh có thể áp dụng bài học trong lớp học vào tình huống thực tế. Ví dụ, tạo những vật dụng hay đồ chơi từ các vật liệu phế thải cho các em nhỏ trong “Mái ấm tình thương”.
– Mô phỏng và đóng vai: Những dự án này được thiết kế nhằm cung cấp cho học sinh một kinh nghiệm thực tế đầu tay. học sinh sẽ vào vai một người khác, sống trong một tình huống mô phỏng tái tạo lại thời gian và không gian nhất định. Mô phỏng và đóng vai là cách rất hữu hiệu để phản ánh lịch sử, mang lại nhiều hiệu quả hay tạo được sự thấu cảm tốt. Ví dụ, để nâng cao ý thức về “An toàn giao thông”, học sinh hóa thân vào một vở kịch hay xây dựng một video clip với nội dung nói về hậu quả của một tai nạn giao thông.
– Xây dựng và thiết kế: Những dự án này dựa trên nhu cầu thực tế hay có thể được tạo nên bởi chuỗi sự kiện đáng tin cậy. Các dự án này đòi hỏi học sinh phải xây dựng được mô hình thực sự hay lập kế hoạch đề xuất giải pháp cho các vấn đề thực tế. Ví dụ, chế tạo tên lửa nước.
– Hợp tác trực tuyến: Những dự án này là các nhiệm vụ giáo dục thực hiện trực tuyến. Các dự án cung cấp kinh nghiệm học tập thực tế khi hợp tác trực tuyến với các lớp khác, các chuyên gia hay cả cộng đồng.
– Tra cứu web: Đây là các hoạt động yêu cầu định hướng trong đó một số hay tất cả các thông tin mà người học sử dụng được lấy từ nguồn Internet. Các dự án này được thiết kế nhắm đến việc lĩnh hội và tích hợp kiến thức.
Dự án là một bài tập tình huống mà học sinh phải giải quyết bằng các kiến thức theo nội dung bài học, đặt học sinh vào tình huống có vấn đề nhưng việc giải quyết vấn đề đòi hỏi tính tự lực cao ở học sinh.
Trong trường hợp thích hợp, sáng kiến về việc xác định chủ đề có thể xuất phát từ phía học sinh. Khi học sinh được tự lựa chọn chủ đề và tự đặt ra vấn đề cần tìm hiểu nghiên cứu, học sinh sẽ hoàn toàn chủ động tích cực trong việc thực hiện dự án. Giai đoạn này được K.Frey mô tả thành hai giai đoạn là đề xuất sáng kiến và thảo luận sáng kiến.
1.2.1.3. Xây dựng bộ câu hỏi định hướng (bộ câu hỏi khung)
a. Thế nào là bộ câu hỏi định hướng?
Bộ câu hỏi định hướng là một hệ thống những câu hỏi do giáo viên đưa ra nhằm mục đích định hướng cho dạy học một nhóm kiến thức thuộc một số bài học.
b. Vai trò của bộ câu hỏi định hướng
Trong PBL không thể thiếu bộ câu hỏi định hướng, nó có vai trò rất quan trọng, là một trong những yếu tố quyết định chất lượng lĩnh hội kiến thức của học sinh. Thay cho việc thuyết trình, đọc, chép, nhồi nhét kiến thức, giáo viên chuẩn bị bộ câu hỏi này sao cho gây được sự hứng thú ở học sinh, buộc học sinh suy nghĩ phát hiện kiến thức, phát triển nội dung bài học, đồng thời khuyến khích học sinh động não tham gia thảo luận xoay quanh những ý tưởng, nội dung trọng tâm của bài học theo một trật tự lôgic.
Bộ câu hỏi định hướng còn nhằm định hướng, dẫn dắt cho học sinh từng bước phát hiện ra bản chất sự vật, quy luật của hiện tượng, kích thích tính tích cực tìm tòi, sự ham hiểu biết, qua đó học sinh có được niềm vui, hứng thú của người khám phá và tự tin khi thấy trong phần nhận xét của thầy cô có phần đóng góp ý kiến của mình. Kết quả, học sinh lĩnh hội được kiến thức mới, biết cách đi đến kiến thức mới, qua đó tư duy được phát triển hơn.
c. Cấu trúc bộ câu hỏi định hướng
Bộ câu hỏi định hướng bao gồm câu hỏi khái quát, câu hỏi bài học và câu hỏi nội dung.
* Câu hỏi khái quát
Câu hỏi khái quát là câu hỏi mở, bao quát được các nhiệm vụ học tập quan trọng, kéo dài suốt chương trình. Câu hỏi khái quát có thể được sử dụng để liên kết nhiều bài học, nhiều môn học hay nhiều chủ đề. Với câu hỏi khái quát, có nhiều hơn một câu trả lời đúng duy nhất, do đó đòi hỏi học sinh phải tư duy bậc cao. Thông thường câu hỏi khái quát phải gắn với nhu cầu có thực trong thực tế cuộc sống, sở thích của học sinh và gây được sự tò mò, sự hứng thú muốn khám phá ở học sinh.
* Câu hỏi bài học
Câu hỏi bài học cũng là câu hỏi mở nhưng hướng học sinh đi vào trọng tâm một bài học, một chủ đề cụ thể. Câu hỏi bài học đòi hỏi phải đủ rộng để bao quát hầu hết các chủ đề của bài học, giúp học sinh tự khám phá và thể hiện những hiểu biết của mình quanh các vấn đề cốt lõi của dự án một cách sáng tạo, độc đáo, duy trì sự hứng thú ở học sinh. Với câu hỏi bài học có nhiều hơn một câu trả lời đúng duy nhất nên cũng đòi hỏi học sinh phải tư duy bậc cao. Câu hỏi bài học hỗ trợ việc nghiên cứu câu hỏi khái quát.
* Câu hỏi nội dung
Câu hỏi nội dung là những câu hỏi cụ thể, trọng tâm, tập trung trực tiếp vào các chuẩn kiến thức và mục tiêu học tập; là câu hỏi hỗ trợ cho các câu hỏi khái quát và câu hỏi bài học. Câu hỏi nội dung được xếp vào loại câu hỏi “đóng”, nó đòi hỏi phải có câu trả lời đúng, rõ ràng, cụ thể, không thể bác bỏ.
d. Yêu cầu của bộ câu hỏi định hướng
Yêu cầu của việc đặt câu hỏi là phải thích hợp, có sức lôi cuốn sẽ khuyến khích học sinh suy nghĩ sâu hơn, tạo nên một ngữ cảnh hiệu quả đối với việc học. Khi học sinh thật sự bị lôi cuốn vào việc tìm kiếm câu trả lời cho các câu hỏi, đó là lúc các em cảm thấy thích thú với việc học. Khi câu hỏi giúp học sinh nhận ra được mối liên hệ giữa môn học với đời sống bản thân, đó cũng là lúc việc học sẽ trở nên có ý nghĩa. Những câu hỏi hay có thể giúp học sinh trở thành những người có động cơ học tập, có khả năng tự định hướng hoạt động học tập và cao hơn nữa là khả năng tự học suốt đời.
Câu hỏi khái quát và câu hỏi bài học phải đưa ra lí do căn bản của việc học, giúp học sinh nhận thức được “Vì sao…? và “Như thế nào…?”, khuyến khích học sinh tìm hiểu, thảo luận và nghiên cứu. Chúng giúp học sinh trong việc cá thể hóa suy nghĩ và phát triển khả năng nhận thức đối với chủ đề. Câu hỏi khái quát và câu hỏi bài học được thiết kế tốt sẽ giúp học sinh tư duy phê phán, làm tăng trí tò mò, thúc đẩy cách học thông qua đặt câu hỏi trong chương trình. Để trả lời được những câu hỏi như thế, học sinh phải xem xét kỹ các chủ đề, xác lập ý nghĩa nội dung rồi mới xây dựng câu trả lời cụ thể từ những thông tin thu thập được.
Câu hỏi nội dung hỗ trợ cho câu hỏi khái quát và câu hỏi bài học bằng cách nhấn mạnh vào việc tìm hiểu các chi tiết trong bài học. Các câu hỏi này giúp học sinh tập trung vào những thông tin xác thực cần phải tìm hiểu để đáp ứng các tiêu chí về chuẩn kiến thức và mục tiêu học tập.
e. Kỹ thuật xây dựng bộ câu hỏi định hướng
Hãy bắt đầu xây dựng bộ câu hỏi định hướng xuất phát từ nội dung và mục tiêu cần đạt đến. Đừng lo ngại về cách thức và ngôn ngữ, cần chú trọng vào tư duy tập thể. Suy nghĩ về các câu hỏi học sinh sẽ hỏi khi bạn triển khai dự án và chú trọng vào việc làm sao để lôi cuốn học sinh. Hãy tìm xem điều gì có thể làm cho học sinh ghi nhớ sâu và lâu nội dung bài học. Bạn có thể viết câu hỏi như một mệnh đề trước, sau đó phát triển nó thành câu hỏi; nếu cần, trước hết hãy viết câu hỏi bằng ngôn ngữ “người lớn” để diễn đạt được nội dung chính, sau đó viết lại bằng ngôn ngữ “học trò”. Đảm bảo rằng câu hỏi khái quát và câu hỏi bài học có nhiều hơn một câu trả lời hiển nhiên “đúng” nhằm phát triển kỹ năng tư duy mức cao.
Bộ câu hỏi khung chương trình được thiết kế lồng ghép vào nhau, câu hỏi nội dung hỗ trợ câu hỏi bài học và câu hỏi khái quát. Xuất phát từ nội dung bài học và mục tiêu cần đạt cũng như dựa trên ý tưởng hình thành dự án, đối tượng thực hiện và điều kiện cơ sở vật chất mà ta thực hiện quy trình xây dựng từng loại câu hỏi theo thứ tự tính khái quát của câu hỏi giảm dần:
Xây dựng câu hỏi khái quát: giáo viên cần nhìn thấy những vấn đề trong cuộc sống, nhất là những vấn đề mang tính thời sự có liên quan nhiều đến nội dung cần dạy, đặt ra các câu hỏi liên quan đến nội dung, đến thực tiễn và mục tiêu của PBL để kích thích học sinh suy nghĩ và thực hiện các nhiệm vụ được giao, gợi suy nghĩ liên môn. Luôn chú ý đến những kỹ năng tư duy bậc cao muốn phát triển ở học sinh để đặt ra câu hỏi có mức độ khái quát phù hợp.
Xây dựng câu hỏi bài học: giáo viên cần lưu ý đến khả năng tự chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng sống và ứng dụng tri thức chiếm lĩnh để giải quyết các vấn đề cuộc sống.
Xây dựng câu hỏi nội dung: giáo viên cần chú trọng đến kiến thức khung sao cho các câu hỏi này hỗ trợ học sinh giải quyết được câu hỏi bài học và câu hỏi khái quát. Muốn phát triển câu hỏi của mình, giáo viên hãy thử dùng bảng danh mục dưới đây để xác định liệu mỗi câu hỏi đó có đáp án mở hay không? có kích thích học sinh suy nghĩ thật sự hay không?
+ Câu hỏi có thể dùng cho thảo luận ban đầu hoặc cho một vấn đề khó hay không?
+ Câu hỏi có kích thích óc tò mò, khuyến khích khám phá ý tưởng hay khiến học sinh quan tâm hay không?
+ Câu hỏi có đặt ra thách thức hợp lý, có đòi hỏi học sinh tự hình thành ý nghĩ cùng với những thông tin mà các em đã thu thập được không?
+ Những đối tượng khác nhau có trả lời câu hỏi theo các cách khác nhau hay không?
+ Câu hỏi có cho phép các cách tiếp cận sáng tạo và đáp án duy nhất không?
+ Câu hỏi có đòi hỏi học sinh trả lời “tại sao” và “như thế nào” không?
+ Câu hỏi có giúp mở điểm mấu chốt của môn học không?
+ Câu hỏi có liên quan đến một khía cạnh nào đó về cuộc sống của học sinh không?
+ Câu hỏi có đòi hỏi học sinh phân tích tư duy của chính các em không?
Khi giáo viên đã tiến hành đánh giá các câu hỏi, hãy sửa chữa và sắp xếp lại nếu thấy cần thiết. Nên nhớ, hãy diễn đạt bằng ngôn ngữ hấp dẫn đối với học sinh. Hãy để câu hỏi của giáo viên mở ra mọi lúc và khi thích hợp hãy cho học sinh tự phát triển câu hỏi.
Như vậy, việc xây dựng thành công bộ câu hỏi định hướng sẽ góp phần không nhỏ đến chất lượng dạy học theo PBL.
1.2.1.4. Lập kế hoạch thực hiện dự án
Để dạy tốt và đảm bảo học sinh tham gia tích cực vào quá trình học, giáo viên cần lên kế hoạch và chuẩn bị bài chu đáo. Để thành công, giáo viên cần phác họa các dự án cụ thể, có thể thực hiện được dựa vào mục tiêu dạy học. Nếu không bám sát vào mục tiêu dạy học, mục đích dự án sẽ trở nên mơ hồ và kết quả học tập mong đợi từ phía học sinh có thể bị hiểu sai lệch. Khi thiết kế dự án, điều quan trọng là phải chắc chắn rằng việc lập kế hoạch hành động sẽ giúp cho học sinh nhận diện được mục tiêu học tập dự kiến. Bằng việc điểm lại mục tiêu và chuẩn của chương trình, giáo viên sẽ lựa chọn các bài học ưu tiên trong chương trình. Về cơ bản, khâu lập kế hoạch dự án bao gồm các bước sau:
Bước 1. Xác định mục tiêu học tập cụ thể bằng cách sử dụng các chuẩn nội dung và những kỹ năng tư duy bậc cao mong muốn đạt được
Bước 2. Xây dựng bộ câu hỏi định hướng Bước 3. Lập kế hoạch đánh giá dự án Bước 4. Thiết kế các hoạt động
Tiến trình 4 bước thực hiện đơn giản này có thể khiến cho giáo viên nhầm lẫn, nhưng thiết kế dự án không phải là đường thẳng mà là một vòng xoáy trôn ốc để đảm bảo đi đúng hướng. Bộ câu hỏi định hướng, kế hoạch đánh giá dự án nên được thực hiện cùng nhau nhằm hỗ trợ cho việc đạt mục đích dạy học và những chuẩn trọng tâm của bài học. Cũng nên lưu ý rằng, trong suốt quá trình thực hiện dự án, cần tạo nhiều cơ hội để học sinh được đánh giá, tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau, cũng như kiểm tra sự tiến bộ của học sinh qua từng giai đoạn.
1.2.1.5. Thực hiện dự án
Đây là hoạt động đặc trưng của PBL. Các học sinh được chia thành nhiều nhóm học tập và thực hiện dự án theo kế hoạch chung.
a. Vai trò của làm việc theo nhóm trong PBL
Làm việc theo nhóm có tác dụng tích cực trong việc nâng cao chất lượng học tập và rèn luyện các kỷ năng “mềm” của Thế kỷ XXI cho học sinh. Trong quá trình thực hiện dự án, hoạt động nhóm thể hiện được:
Thứ nhất, sự hợp tác làm việc, biết chia sẻ, giúp đỡ và tôn trọng lẫn nhau của tất cả các thành viên trong nhóm. Tuy nhiên trong quá trình làm việc cùng nhau, không tránh khỏi sự tranh luận nhưng sự tranh luận lại là một hoạt động rất hữu ích, vì qua đó mỗi học sinh mới tìm được cái đúng, cái sai và nguyên nhân dẫn đến những quan niệm khác nhau đó. Nhờ vậy, học sinh sẽ nắm vững kiến thức, vừa có được kỹ năng xây dựng kiến thức. Kết quả học tập của nhóm được tạo ra khi có sự thống nhất, sự kết hợp tất cả kết quả của các thành viên trong nhóm.
Thứ hai, mỗi thành viên đều được phân công thực hiện một phần của công việc và tích cực làm việc để đóng góp vào kết quả chung. Qua đó thể hiện tính trách nhiệm của mỗi thành viên.

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

Theo dõi
Thông báo của
guest
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Set your categories menu in Theme Settings -> Header -> Menu -> Mobile menu (categories)
Shopping cart

KẾT NỐI NGAY VỚI KIẾN EDU

Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe và đưa ra giải pháp phù hợp nhất cho vấn đề của bạn.

0886945229

Email

kienedu.com@gmail.com

Đây chỉ là bản XEM THỬ - khách hàng vui lòng chọn mua tài liệu và thanh toán để nhận bản đầy đủ

TẢI TÀI LIỆU

Bước 1: Chuyển phí tải tài liệu vào số tài khoản sau với nội dung: Mã tài liệu

Chủ TK: Ngô Thị Mai Lan

STK Agribank: 2904281013397 Copy
* (Nếu khách hàng sử dụng ngân hàng Agribank thì chuyển tiền vào STK Agribank để tránh bị lỗi treo giao dịch)
STK TPbank: 23665416789 Copy
tài khoản tpbank kienedu

Bước 2: Gửi ảnh chụp giao dịch vào Zalo kèm mã tài liệu để nhận tài liệu qua Zalo hoặc email

Nhắn tin tới Zalo Kiến Edu (nhấn vào đây để xác nhận và nhận tài liệu!)