SKKN Thông qua dạy học chương “Các định luật bảo toàn” vật lí lớp 10 THPT phát triển năng lực vận dụng kiến thức vật lí vào thực tiễn cho học sinh.
- Mã tài liệu: MP0488 Copy
Môn: | Vật lí |
Lớp: | 10 |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 690 |
Lượt tải: | 9 |
Số trang: | 69 |
Tác giả: | Lê Thị Thu Hiền |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | THPT Tương Dương 2 |
Năm viết: | 2019-2020 |
Số trang: | 69 |
Tác giả: | Lê Thị Thu Hiền |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | THPT Tương Dương 2 |
Năm viết: | 2019-2020 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Thông qua dạy học chương “Các định luật bảo toàn” vật lí lớp 10 THPT phát triển năng lực vận dụng kiến thức vật lí vào thực tiễn cho học sinh” triển khai các biện pháp như sau:
– Điều tra được thực trạng dạy học Vật lý theo định hướng tăng cường tính thực tiễn ở một số trường THPT trên địa bàn huyện Nam Đàn và huyện Hưng Nguyên, phân tích các nguyên nhân, khó khăn, đưa ra hướng khắc phục, giải pháp để nâng cao chất lượng dạy học, áp dụng thực nghiệm có hiệu quả tại trường THPT Nam Đàn 2.
– Xây dựng hệ thống các tình hướng thực tiễn áp dụng vào từng quá trình dạy học của từng bài phục vụ giảng dạy một số bài học trong Chương “Các định luật bảo toàn” Vật lý 10 THPT nhằm phát triển năng lực giải quyết vấn đề thực tiễn cho HS. – Tổ chức dạy học một số bài Chương “Các định luật bảo toàn” Vật lý 10 tại trường phổ thông phù hợp với điều kiện dạy học của nhà trường và thu được những kết quả thiết thực nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Vật lý. Góp phần đưa kiến thức lý thuyết gần hơn với thực tiễn, giúp HS thực sự yêu thích, hứng thú học tập với bộ môn Vật lý. Cùng tham gia vào phong trào thi đua đổi mới sáng tạo trong dạy học đáp ứng với yêu cầu chương trình giáo dục phổ thông tổng thể 2018.
Mô tả sản phẩm
PHẦN 1 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đào tạo những con người lao động phát triển toàn diện có tư duy sáng tạo, có năng lực thực hành giỏi, có khả năng đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với phát triển nền kinh tế tri thức và xu hướng toàn cầu hóa là nhiệm vụ cấp bách đối với ngành giáo dục nước ta hiện nay. Một trong những mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông tổng thể 2018 là “Bảo đảm phát triển phẩm chất và năng lực người học thông qua nội dung giáo dục với những kiến thức, kĩ năng cơ bản, thiết thực, hiện đại; hài hoà đức, trí, thể, mĩ; chú trọng thực hành, vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết vấn đề trong học tập và đời sống”.
Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng tiếp cận năng lực của người học được xác định trong Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI của Ban chấp hành Trung ương Đảng về “Đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã chỉ rõ: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học tập chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học.
Môn Vật lí là một môn học gắn với thực nghiệm, các hiện tượng trong tự nhiên hầu hết được giải thích thông qua các kiến thức vật lí. Vật lí gắn với các hoạt động trong đời sống và có ứng dụng trong nhiều lĩnh vực. Việc dạy học gắn với thực tiễn giúp học sinh hiểu sâu hơn về lí thuyết, thấy được mối liên hệ giữa lí thuyết và thực tiễn, giải thích được các hiện tượng vật lí xảy ra trong thế giới tự nhiên xung quanh ta. Nó còn có một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng đó là rèn luyện tư duy sáng tạo.
Trong thực tế dạy học vật lí, đa số giáo viên chỉ chú trọng đến dạy kiến thức lí thuyết, vận dụng kiến thức lí thuyết để giải các bài tập lập luận, tính toán mà chưa chú trọng đến việc vận dụng các kiến thức lí thuyết đã học được vào thực tiễn cuộc sống, khiến cho những kiến thức học sinh thu nhận được mang tính hàn lâm, khó hiểu, khó ghi nhớ, mang tính áp đặt và xa rời thực tiễn. Việc tổ chức thi cử, kiến thức thi trong chương trình thi THPT quốc gia, học sinh giỏi… việc ra đề để cho học sinh vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các vấn đề
thực tiễn là đang còn ít, chưa sát thực, vẫn chỉ mang tính lí thuyết. Dẫn đến một thực trạng là học sinh chỉ biết kiến thức lí thuyết và kỹ năng giải bài tập ở mức độ nào đó (mà ta hay gọi là lý thuyết suông) mà quên đi các vấn đề thực tiễn và việc vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các vấn đề thực tiễn đó; khiến cho học sinh càng ngày càng mất hứng thú ở bộ môn vật lý. Như vậy, sự cần thiết phải tăng cường tính thực tiễn trong các tiết học bằng các kiến thức thực tiễn, dụng cụ, thí nghiệm (có sẵn, tự làm), video, tranh ảnh…có thể đưa học sinh tham quan, trải nghiệm. Từ đó giúp học sinh phát triển năng lực vận dụng lí thuyết vào giải quyết các vấn đề thực tiễn
Chương “Các định luật bảo toàn” Vật lí 10 THPT là chương có nhiều hiện tượng gắn với đời sống, nếu như dạy học gắn với thực tiễn sẽ làm cho học sinh hứng thú học tập hơn, nâng cao chất lượng học tập của học sinh hơn.
Từ những lí do trình bày trên, trong khuôn khổ của SKKN, chúng tôi chọn đề tài: Thông qua dạy học chương “Các định luật bảo toàn” vật lí lớp 10 THPT phát triển năng lực vận dụng kiến thức vật lí vào thực tiễn cho học sinh.
2. Mục đích nghiên cứu
Phát triển năng lực vận dụng kiến thức vật lí vào thực tiễn của học sinh , thông qua dạy học chương “Các định luật bảo toàn vật lí lớp 10 THPT”, đáp ứng yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông tổng thể 2018.
3. Đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu
– Đối tượng: Hoạt động dạy và học vật lí theo hướng phát triển năng lực ở trường THPT Nam Đàn 2.
– Phạm vi nghiên cứu: Chương “Các định luật bảo toàn” Vật lí 10 THPT.
– Thời gian thực hiện: từ tháng 08/2021 đến tháng 04/2022
4. Phương pháp nghiên cứu
– Nghiên cứu lí luận: nghiên cứu tài liệu, các công trình nghiên cứu về tăng cường tính thực tiễn trong quá trình dạy học, phương pháp dạy học tích cực của bộ môn vật lý, sách giáo khoa phổ thông, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về đổi mới giáo dục và đào tạo…
– Phương pháp nghiên cứu các vấn đề thực tiễn trong Chương “Các định luật bảo toàn” lớp 10 THPT.
– Tiến hành thực nghiệm sư phạm: khảo sát ý kiến của giáo viên, của học sinh về tăng cường tính thực tiễn trong dạy học. Dự giờ đồng nghiệp, trao đổi ý kiến với giáo viên, xây dựng hệ thống các câu hỏi, phiếu điều tra để điều tra thực trạng dạy học gắn liền với thực tiễn ở các trường THPT nơi công tác và các trường bạn.
– Phương pháp thống kê toán học: sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lí kết quả thực nghiệm để rút ra kết luận, chứng minh tính khả thi của đề tài.
5. Tính mới của đề tài
– Điều tra được thực trạng dạy học Vật lý theo định hướng tăng cường tính thực tiễn ở một số trường THPT trên địa bàn huyện Nam Đàn và huyện Hưng Nguyên, phân tích các nguyên nhân, khó khăn, đưa ra hướng khắc phục, giải pháp để nâng cao chất lượng dạy học, áp dụng thực nghiệm có hiệu quả tại trường THPT Nam Đàn 2.
– Xây dựng hệ thống các tình hướng thực tiễn áp dụng vào từng quá trình dạy học của từng bài phục vụ giảng dạy một số bài học trong Chương “Các định luật bảo toàn” Vật lý 10 THPT nhằm phát triển năng lực giải quyết vấn đề thực tiễn cho HS. – Tổ chức dạy học một số bài Chương “Các định luật bảo toàn” Vật lý 10 tại trường phổ thông phù hợp với điều kiện dạy học của nhà trường và thu được những kết quả thiết thực nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Vật lý. Góp phần đưa kiến thức lý thuyết gần hơn với thực tiễn, giúp HS thực sự yêu thích, hứng thú học tập với bộ môn Vật lý. Cùng tham gia vào phong trào thi đua đổi mới sáng tạo trong dạy học đáp ứng với yêu cầu chương trình giáo dục phổ thông tổng thể 2018.
PHẦN II NỘI DUNG
I. CƠ SỞ CỦA VIỆC DẠY HỌC VẬT LÍ THEO HƯỚNG TĂNG
CƯỜNG TÍNH THỰC TIỄN Ở TRƯỜNG THPT
1.1 Cấu trúc của dạy học giải quyết vấn đề tăng cường tính thực tiễn
Để phát huy đầy đủ vai trò của học sinh trong việc tự chủ hành động xây dựng kiến thức, vai trò của giáo viên trong tổ chức tình huống học tập và định hướng hành động tìm tòi xây dựng tri thức của học sinh, cũng như phát huy vai trò của tương tác xã hội (của tập thể học sinh) đối với quá trình nhận thức của mỗi cá nhân, đồng thời cho học sinh làm quen với quy trình xây dựng, bảo vệ cái mới trong nghiên cứu khoa học. Tiến trình dạy học này gồm các pha như sau:
Pha thứ nhất: Chuyển giao nhiệm vụ, bất ổn hóa tri thức phát biểu vấn đề có tính thực tiễn: Giáo viên giao cho học sinh một nhiệm vụ có tiềm ẩn vấn đề, hướng dẫn học sinh quan tâm đến nhiệm vụ đặt ra, sẵn sàng nhận và tự nguyện thực hiện nhiệm vụ. Học sinh ý thức được nhiệm vụ khó khăn (vấn đề xuất hiện). Dưới sự hướng dẫn của giáo viên vấn đề được chính thức diễn đạt.
Pha thứ 2: Học sinh hành động độc lập, tự chủ, trao đổi, tìm tòi, giải quyết vấn đề có tính thực tiễn. Học sinh làm việc độc lập và trao đổi trong nhóm về cách giải quyết vấn đề, kết quả thu được, qua đó có thể chỉnh lý, hoàn thiện tiếp. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, hành động của học sinh được định hướng phù hợp với tiến trình nhận thức khoa học và thông qua các tình huống thứ cấp khi cần.
Pha thứ 3: Tranh luận, thể chế hóa vận dụng tri thức mới. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh tranh luận, bảo vệ cái xây dựng được.
– Giáo viên chính xác hóa, bổ sung, thể chế hóa tri thức mới trong tình huống thực tiễn. Học sinh chính thức ghi nhận tri thức mới và vận dụng
Sơ đồ các pha DHGQVĐ phỏng theo tiến trình GQVĐ trong nghiên cứu khoa học
1.2. Dạy học vật lí gắn với thực tiễn
a) Đặc điểm của môn Vật lí ở trường THPT
– Vật lí học ở trường phổ thông chủ yếu là vật lí thực nghiệm. Nhằm trang bị cho HS những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có hệ thống, bao gồm: các khái niệm vật lí; các định luật vật lí cơ bản; nội dung chính của các thuyết vật lí và các ứng dụng quan trọng nhất của vật lí trong đời sống và trong sản xuất.
– Vật lí học là một khoa học chính xác, đòi hỏi vừa phải có kĩ năng quan sát tinh tế, khéo léo tác động vào tự nhiên khi làm thí nghiệm, vừa phải có lôgic chặt chẽ, biện chứng, vừa phải trao đổi thảo luận để khẳng định chân lí.
– Vật lí học là một môn khoa học thực nghiệm vì nội dung của nó gắn bó chặt chẽ với các sự kiện thực tế và có ứng dụng rộng rãi trong sản xuất, đời sống và kĩ thuật. Vì vậy có thể nói con đường nhận thức đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng rồi từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn là con đường phổ biến và quan trọng nhất trong quá trình nhận thức các hiện tượng, các quá trình, các quy luật tự nhiên…nói chung và trong dạy học vật lí nói riêng.
Dạy học gắn với thực tiễn GV không chỉ làm cho HS thấy được những ứng dụng của kiến thức mình đã học, những ứng dụng khoa học, kỹ thuật ứng dụng vào đời sống mà còn làm cho HS say mê khoa học, có một hứng thú để tìm tòi, giải thích những sự thay đổi xung quanh mình, hình thành nên một động cơ học tập đúng đắn. Về mặt tâm lý học, cần khơi gợi động cơ học tập bằng những tình huống học tập, bằng các vấn đề thực tiễn phù hợp với khả năng và mức độ hiểu biết của HS, có nhận thức đúng đắn trong quá trình học tập…tạo cho HS một môi trường học tập để học sinh tin tưởng vào khả năng làm việc của mình với những kiến thức đã, đang và sẽ có.
Mặt khác những kiến thức vật lí phổ thông là những kiến thức tương đối đơn giản mà học sinh có thể tìm đọc ở bất cứ SGK, sách tham khảo nào nhưng việc vận dụng nó và đào sâu chưa được GV quan tâm một cách thỏa đáng, đa phần GV chỉ cung cấp những kiến thức đã có trong SGK để làm bài tập. Với lối dạy như thế sau khi dạy xong GV chỉ rèn luyện cho HS làm bài tập chứ chưa rèn cho HS một thái độ học tập, tinh thần làm việc hợp tác. Quan niệm dạy học cho rằng học sinh rất trống rỗng, đến khi học mới có thể tiếp thu và biết là sai lầm. HS phổ thông nhất là học sinh THPT đã có mức độ trưởng thành nhất định. GV phải dạy cho học sinh cách đi tìm kiếm kiến thức chứ không phải là tiếp thu kiến thức thụ động từ GV. Trong nhà trường phải bắt đầu rèn luyện cho HS tính tích cực, chủ động, tự giác, sáng tạo trong học tập để hình thành ở các em kỹ năng sống. Câu nói “kiến thức này thầy không dạy nên các em không học” là không chấp nhận được. Do đó đánh giá một tiết học là phải căn cứ vào những hoạt động của HS trong tiết đó. Hiện nay khoa học công nghệ, truyền thông phát triển một cách mạnh mẽ, những kiến thức khoa học bắt đầu được đưa hẳn vào các chương trình truyền hình, những chương trình em yêu khoa học, mục đích là để các em thấy được những kiến thức bổ ích cho cuộc sống. Nên dạy học chúng ta phải mạnh dạn đưa những ứng dụng khoa học vào trong dạy học, từ đó HS hiểu kiến thức. Với mức độ của các em và dưới sự hướng dẫn của GV, hệ thống câu hỏi gắn liền với thực tiễn sẽ giúp các em nhanh chóng trả lời một cách dễ dàng không mất nhiều thời gian. Chúng ta cần nhận thấy rằng có rất nhiều GV không dám mạnh dạn cho học sinh làm vì ngại họ không làm được. Điều đó cũng một phần đúng, HS sẽ không bao giờ làm được nếu giao nhiệm vụ cho HS rồi đến giờ yêu cầu HS báo cáo, còn nếu có GV hướng dẫn, gợi ý thì học sinh sẽ hoàn thành được nhiệm vụ được giao. Khi đó việc học trở nên nhẹ nhàng hơn, môi trường học, lớp học cũng trở nên thân thiện, dễ gần hơn, HS cảm nhận được những kiến thức xung quanh thật ý nghĩa cho cuộc sống. Với cách làm này học sinh không chỉ thích môn học mà mình đảm nhận mà còn ham mê tìm tòi, học hỏi trong các tiết học khác. Thực tế nếu tìm cách cho HS tự lực học tập, nhưng HS chỉ tự lực học
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 7
- 107
- 1
- [product_views]
100.000 ₫
- 1
- 477
- 2
- [product_views]
100.000 ₫
- 4
- 499
- 3
- [product_views]
100.000 ₫
- 6
- 535
- 4
- [product_views]
100.000 ₫
- 1
- 566
- 5
- [product_views]
100.000 ₫
- 2
- 422
- 6
- [product_views]
100.000 ₫
- 2
- 442
- 7
- [product_views]
100.000 ₫
- 8
- 578
- 8
- [product_views]
100.000 ₫
- 9
- 538
- 9
- [product_views]
100.000 ₫
- 6
- 389
- 10
- [product_views]