SKKN Áp dụng giáo dục stem dạy học chủ đề – carbon và chế tạo máy lọc nước mini – hóa học 11 cho học sinh huyện miền núi Tương Dương, Nghệ An

Giá:
100.000 đ
Môn: Hóa học
Lớp: 11
Bộ sách:
Lượt xem: 589
Lượt tải: 12
Số trang: 51
Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hằng
Trình độ chuyên môn: Cử nhân đại học
Đơn vị công tác: THPT Tương Dương 1
Năm viết: 2021-2022
Số trang: 51
Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hằng
Trình độ chuyên môn: Cử nhân đại học
Đơn vị công tác: THPT Tương Dương 1
Năm viết: 2021-2022

Các hoạt động và nhiệm vụ học tập của học sinh
Có nhiều quy trình giáo dục STEM khác nhau đang được áp dụng, trong đề tài này, chúng tôi tổ chức HS hoạt động theo quy trình giáo dục STEM như sau:
Bước 1. Xác định vấn đề.
Bước 2. Xác định giải pháp: Nghiên cứu kiến thức nền, động não tìm giải pháp.
Bước 3. Đề xuất các giải pháp/bản thiết kế.
Bước 4. Lựa chọn giải pháp/bản thiết kế.
Bước 5. Chế tạo mô hình.
Bước 6. Thử nghiệm và đánh giá.
Bước 7. Chia sẻ: Báo cáo, thảo luận, trả lời các câu hỏi.
Bước 8. Điều chỉnh thiết kế.

Mô tả sản phẩm

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Hóa học là môn học kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và thực nghiệm, là cầu nối với các nghành khoa học tự nhiên khác như toán học, vật lý, sinh học. Hóa học đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống, sản xuất  góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội.
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay đã tác động không nhỏ tới các mặt trong đời sống xã hội trong đó có cả lĩnh vực giáo dục. Trước sự thay đổi lớn của nghề nghiệp, đòi hỏi các kỹ năng của người lao động cũng phải thay đổi. Chính vì vậy, việc đổi mới tư duy giáo dục chuyển mạnh từ quá trình chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học để đáp ứng sự thay đổi của cuộc sống là một tất yếu.
Tuy nhiên đối với các em học sinh ở vùng núi cao phía Tây Nghệ An, nơi chúng tôi đang làm việc hóa học đối với các em là một học khá khô khan và các em chưa hiểu hết được tầm quan trọng của hóa học trong đời sống và sản xuất. Cụ thể khi chọn ban thi tốt nghiệp THPT hầu hết các em đều chọn ban KHXH. Với những khó khăn đó, để tạo hứng thú cho học sinh trong việc lựa chọn môn hóa, để các em hiểu hơn về tầm quan trọng của môn hóa học, việc thay đổi phương pháp dạy học từ dạy học tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực là một xu hướng đem lại hiệu quả cao trong giáo dục nhưng cũng đòi hỏi người dạy và người học đều phải thay đổi cách dạy và cách học.
Giáo dục STEM là một quan điểm dạy học theo hướng tiếp cận liên ngành từ hai trong các lĩnh vực Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật và Toán học trở lên. Thông qua cách tiếp cận giáo dục tích hợp trong STEM, học sinh nhận thức được sự giao thoa giữa các ngành khoa học và toán học, thấy được sự cần thiết của các kiến thức khoa học để giải quyết một vấn đề thực tiễn hay tạo nên một sản phẩm. Đồng thời, trong quá trình đó HS được khuyến khích sáng tạo, khơi gợi niềm say mê học tập và giúp các em khám phá tiềm năng của bản thân.
Hóa học là một môn khoa học nằm trong thành tố của Giáo dục STEM, việc tổ chức dạy học kiến thức Hóa học theo định hướng giáo dục STEM chính là một hướng nghiên cứu hiệu quả giúp nội dung học tập gắn liền với thực tiễn, giúp HS hình thành được những kỹ năng cần thiết để làm việc và phát triển trong thế giới công nghệ hiện đại.
Với mong muốn và hy vọng có thể có thể giúp các em học sinh vùng núi phía Tây Nghệ An hứng thú và yêu thích môn hóa học. Ứng dụng được các kiến thức các em đã học vào giải quyết vấn đề thực tiễn trong đời sống hằng ngày chúng tôi đã chọn đề tài: “ÁP DỤNG GIÁO DỤC STEM DẠY HỌC CHỦ ĐỀ – CARBON VÀ CHẾ TẠO MÁY LỌC NƯỚC MINI – HÓA HỌC 11 CHO HỌC SINH HUYỆN MIỀN NÚI TƯƠNG DƯƠNG, NGHỆ AN.”
2. Mục đích nghiên cứu
Thiết kế và tổ chức dạy học chủ đề: Carbon và hợp chất của carbon theo định hướng giáo dục STEM : “Carbon và chế tạo máy lọc nước mini.”
– Giúp học sinh phát triển năng lực giải quyết vấn đề thông qua môn hóa học và năng lực vận dụng kiến thức hóa học vào cuộc sống.
– Đưa ra phương pháp dạy học phù hợp với học sinh miền núi nhằm khơi dậy khả năng hứng thú học tập và áp dụng vào thực tiễn đời sống.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
– Phạm vi nghiên cứu: Chủ đề dạy học: “Carbon và hợp chất của carbon – Mục IV:
ứng dụng của Carbon.”
– Đối tượng nghiên cứu: Học sinh khối 11 trường THPT Tương Dương I.
4. Phương pháp nghiên cứu
– Nghiên cứu cơ sở lí luận của giáo dục STEM, nghiên cứu sách giáo khoa, tài liệu… có liên quan.
– Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Khảo sát thực trạng trường THPT, nơi ở của các em học sinh, thăm dò ý kiến của các giáo viên khác để xem xét tính khả thi của đề tài.
+ Phương pháp quan sát.
+ Phương pháp điều tra.
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm. – Thu thập, xử lý số liệu.
5. Kế hoạch nghiên cứu
STT Thời gian Nội dung công việc Sản phẩm
1 Tháng 6/2021 Tìm hiểu thực trạng và chọn đề tài, viết đề cương nghiên cứu Bản đề cương chi tiết của đề tài.
2 Tháng 7,8,9  – Nghiên cứu lý luận dạy học STEM, PPDH tích cực của bộ môn hóa học.
– Khảo sát thực trạng.
– Trao đổi với đồng nghiệp và đề xuất sáng kiến. – Tập hợp lý thuyết của đề tài.
– Xử lý số liệu – Tổng hợp các ý kiến góp ý của đồng nghiệp.
3 Tháng 10, 11 – Kiểm tra trước thực nghiệm
– Tiến hành dạy thử  – Tổng hợp, xử lý các kết quả thử
nghiệm đề tài.
4 Tháng 12 – Viết sơ lược sáng kiến
– Xin ý kiến góp ý của đồng nghiệp. – Bản thảo sáng kiến.
– Tập hợp ý kiến đóng góp của đồng nghiệp.
5 Tháng 1, 2 Hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm Chấm sáng kiến kinh nghiệm cấp trường.
6 Tháng 3 Chỉnh sửa bổ sung sáng kiến sau khi chấm cấp trường. Hoàn thành sáng kiến nộp sở.
6. Đóng góp của đề tài
Về mặt lý luận: góp phần hoàn thiện và đóng  góp vào thực tiễn dạy học hóa học ở khối 11 nói riêng và trường THPT nói chung, đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học từ dạy học tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực.
Về mặt thực tiễn: Đây là đề tài giúp học sinh vận dụng được kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống, giúp các em có niềm hứng thú trong môn học. Góp phần củng cố hoàn thiện về việc ứng dụng dạy học STEM trong bộ môn hóa học của trường THPT.
PHẦN II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
1.1. STEM là gì? Hiểu đúng về giáo dục STEM
Phân tích dựa vào góc nhìn từ các chương trình giáo dục STEM tại Mỹ, nơi khởi nguồn của ý tưởng giáo dục STEM. Thuật ngữ STEM là chữ viết tắt bằng tiếng Anh của bốn chữ: Science (Khoa học), Technology (Công nghệ), Engineering (Kỹ thuật) và Mathematics (Toán). Tuy nhiên, trong tiếng Anh STEM thường đi kèm với các từ khác, làm cho STEM có những nghĩa bổ sung tương ứng. Ban đầu thuật ngữ STEM được viết “STEM fields” được xuất hiện trong các văn bản về ngân sách đầu tư trong giáo dục và vấn đề cấp visa cho nhập cư tại Mỹ. Về sau, STEM được viết đi kèm với các từ khác như: “STEM education” (giáo dục STEM), “STEM workforce” (nguồn nhân lực trong lĩnh vực STEM), “STEM learning” (học trong lĩnh vực STEM), “STEM careers” (các ngành nghề trong lĩnh vực STEM), “STEM curriculum” (khung chương trình dạy học STEM), “STEM awareness” (nhận thức về các ngành nghề STEM),…
Nền tảng của giáo dục STEM chính là giáo dục khoa học (Science education). Chính giáo dục khoa học là lĩnh vực đề xuất ra các chương trình giáo dục STEM hiện nay. Tại Mỹ, giáo dục khoa học được xem là ngành khoa học nghiên cứu cơ bản và nền tảng giúp đẩy mạnh nền khoa học từ gốc rễ là con người thông qua đào tạo giáo viên dạy khoa học và xây dựng các chương trình giáo dục từ chính quy (formal) và không chính quy (informal) bắt đầu các chương trình giáo dục mầm non đến bậc đại học, từ gia đình đến các hoạt động giáo dục khoa học ngoài xã hội. Việt Nam chúng ta chưa có ngành nghiên cứu giáo dục khoa học và cũng chưa có đơn vị nào tham gia các diễn đàn giáo dục khoa học quốc tế.
Tổ chức uy tín nhất hiện nay trong lĩnh giáo dục khoa học trên thế giới là
Hiệp hội các giáo viên dạy khoa học quốc gia Mỹ (National Science Teachers Association – NSTA) được thành lập năm 1944, đã đề xuất ra khái niệm giáo dục STEM (STEM education) với cách định nghĩa ban đầu như sau:
“STEM education is an interdisciplinary approach to learning where rigorous academic concepts are coupled with real-world lessons as students apply science, technology, engineering, and mathematics in contexts that make connections between school, community, work, and the global enterprise enabling the development of STEM literacy and with it the ability to compete in the new economy. (Tsupros, Kohler, & Hallinen, 2009).
Tạm dịch:
“Giáo dục STEM là một cách tiếp cận liên ngành trong quá trình học, trong đó các khái niệm học thuật mang tính nguyên tắc được lồng ghép với các bài học trong thế giới thực, ở đó các học sinh áp dụng các kiến thức trong khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán vào trong các bối cảnh cụ thể, giúp kết nối giữa trường học, cộng đồng, nơi làm việc và các tổ chức toàn cầu, để từ đó phát triển các năng lực trong lĩnh vực STEM và cùng với đó có thể cạnh tranh trong nền kinh kế mới”.
Từ cách định nghĩa trên, có 3 đặc điểm quan trọng khi nói về giáo dục STEM:
1.1.1. Cách tiếp cận liên ngành
Xin lưu ý “liên ngành” khác với “đa ngành”. Mặc dù cũng là có nhiều ngành, nhiều lĩnh vực như “liên ngành” thể hiện sự kết nối và bổ trợ lẫn nhau trong các ngành. Do vậy, nếu một chương trình học, một trường học chỉ có nhiều môn, nhiều giáo viên dạy các ngành khác nhau mà không có sự kết nối và bổ trợ lẫn nhau thì chưa được gọi là giáo dục STEM.
1.1.2. Lồng ghép với các bài học trong thế giới thực
Đó là thể hiện tính thực tiễn và tính ứng dụng kiến thức trong việc giải quyết các vấn đề thực tế. Ở đây, không còn rào cản của việc học kiến thức lý thuyết với ứng dụng. Do vậy, các chương trình giáo dục STEM nhất thiết phải hướng đến các hoạt động thực hành và vận dụng kiến thức để tạo ra sản phẩm hoặc giải quyết các vấn đề của thực tế cuộc sống.
1.1.3. Kết nối từ trường học, cộng đồng đến các tổ chức toàn cầu
Chúng ta đang ở trong kỷ nguyên của thế giới phẳng, cách mạng công nghiệp 4.0 (nơi mà tự động hóa và điều khiển từ xa thông qua các thiết bị điện tử di động lên ngôi, thông qua đường truyền Internet). Do vậy, quá trình giáo dục STEM không chỉ hướng đến vấn đề cụ thể của địa phương mà phải đặt trong mối liên hệ với bối cảnh kinh tế toàn cầu và các xu hướng chung của thế giới. Ví dụ: biến đổi khí hậu, dịch bệnh toàn cầu…
Như vậy, cách định nghĩa về giáo dục STEM nói đến một cách tiếp cận liên ngành, liên môn học trong một chương trình đào tạo, cụ thể phải có bốn lĩnh vực: Khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán. Giáo dục STEM giúp học sinh nhận thấy được tầm quan trọng của kiến thức các môn khoa học, toán và công nghệ và hướng đến sự vận dụng kỹ thuật trong việc giải quyết các vấn đề. Giáo dục STEM tại Mỹ khá đa dạng và được dạy theo chủ đề. Không chỉ có hoạt động dạy làm robot mới được xem là giáo dục STEM. Ngay những trẻ em mẫu giáo, tiểu học cũng đã được học các chương trình tích hợp STEM, ví dụ như thông qua các trò chơi làm mô hình núi lửa, làm bong bóng bay, làm chong chóng quay… Mặc dù chỉ là các trò chơi đơn giản, nhưng được xây dựng và tổ chức có hệ thống và có sự kết nối các nhóm kiến thức với nhau.
Mục đích chính của các chương trình giáo dục STEM không phải để đào tạo ra các nhà khoa học, nhà toán học, kỹ sư mà chính là nằm ở truyền cảm hứng trong học tập, thấy được mối liên hệ giữa các kiến thức (nhất là kiến thức khoa học và toán), và nhận thức được tầm quan trọng của các kiến thức STEM ảnh hưởng đến thế giới và sự phát triển của xã hội trong tương lai. Ngoài ra, các kỹ năng thực hành khoa học và kỹ thuật (Science and Engineering practices) cũng góp phần quan trọng trong việc vận dụng các kiến thức được học trong việc giải quyết vấn đề và tạo thành sản phẩm.
Ví dụ: Thông qua một hoạt động dạy học “Chế tạo nước sát khuẩn” giáo viên lồng ghép kiến thức khoa học về hóa học ( tính chất hóa học của chất ancol etylic, glixerol…), kiến thức về toán (như tính toán khối lượng, nồng độ, phần trăm và các đại lượng liên quan), kiến thức về vật lý (công thức tính khối lượng riêng,công thức chuyển đổi tử khối lượng sang thể tích) sử dụng các công cụ thiết bị (thực hành hóa học) để pha chế được dung dịch hoàn chỉnh, kiến thức sinh học (cấu tạo vi khuẩn, virut, khả năng lây bệnh và lây lan bệnh do vi khuẩn, virut), công nghệ, tin học… Học sinh không chỉ học kiến thức chuyên môn (disciplinary core ideas), mà còn vận dụng các kỹ năng thực hành (practices) và tư duy liên ngành (crosscutting concepts).
Ở Mỹ giáo dục tích hợp STEM không phải để đào tạo học sinh theo chuyên ngành hẹp, mà chính là hướng đến một chất lượng của sự nhận thức và hiểu biết trong lĩnh vực STEM, gọi là STEM literacy (tạm dịch là năng lực STEM). Lý do giáo dục tích hợp STEM hướng đến STEM literacy vì xu hướng phát triển của xã hội trong tương lai bắt buộc mọi người dân phải có hiểu biết liên ngành, nhận thấy được tầm quan trọng của kiến thức khoa học và công nghệ ngày càng ảnh hưởng sâu rộng vào đời sống của con người, đồng thời ý thức được sự cạnh trong nền kinh tế mới dựa vào sức mạnh của các lĩnh vực STEM.
Như vậy, khi nói về thuật ngữ STEM, chúng ta phải thận trọng trong cách dùng từ. Nếu áp dụng một chương trình dạy học, trong đó học sinh được vận dụng các kiến thức đa dạng khác nhau trong bốn lĩnh vực của STEM, chúng ta nên dùng thuật ngữ “giáo dục tích hợp STEM” hoặc “giáo dục liên môn STEM” thay vì chỉ nói chung là “giáo dục STEM” để thấy được đặc điểm và các giá trị cốt lõi của chương trình STEM đó là sự kết nối giữa các kiến thức và môn học. Còn nếu chương trình học chỉ là ghép bốn bộ môn trên lại với nhau, không kết nối và hỗ trợ nhau, thì nên dùng là “chương trình học các môn STEM”.
Để có một chương trình giáo dục tích hợp STEM đạt chất lượng cao, việc đầu tiên phải xây dựng một nền móng vững chắc về giáo dục khoa học, dựa vào bộ tiêu chuẩn khoa học NGSS, tránh trường hợp cắt ghép cơ học ở các môn học, tổ chức rời rạc, không giúp học sinh phát triển nhận thức và kỹ năng liên ngành. Ngoài ra, cần tạo cơ hội cho học sinh được trải nghiệm và khám phá các kiến thức khoa học từ những điều gần gũi, thấy được sức mạnh của khoa học đối với đời sống của con người và yêu quý thế giới tự nhiên xung quanh. Giáo dục STEM thật sự không phải biến học sinh để trở thành nhà khoa học, kỹ sư mà là chuẩn bị cho công dân toàn cầu thế hệ mới. (theo Nguyễn Thành Hải, Thành viên hiệp hội NSTA và NARST, Nghiên cứu sinh tiến sĩ ngành Giáo dục Khoa học, Viện Nghiên cứu Giáo dục STEM, ĐH Missouri, Mỹ)[1].
1.2. Quan điểm giáo dục STEM ở Việt Nam trong chương trình giáo dục phổ thông mới
Ở Việt Nam hiện nay, khái niệm giáo dục STEM là chương trình giảng dạy dựa trên ý tưởng trang bị cho người học những kiến thức, kĩ năng liên quan đến khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học, theo cách tiếp cận liên môn và người học có thể áp dụng để giải quyết vấn đề trong cuộc sống hàng ngày.
STEM kết hợp chúng thành 1 mô hình học tập gắn kết dựa trên các ứng dụng thực tế. Đặt người học vào vai trò của 1 nhà phát minh, người học phải hiểu thực chất của các kiến thức được trang bị.
Người học được tham gia các hoạt động: thiết lập vấn đề, tìm kiếm giải pháp hay cách thức để giải quyết vấn đề, thu thập thông tin, bằng chứng và cuối cùng là rút ra kiến thức. Qua đó vừa thể hiện phương pháp tiếp cận liên môn vừa phát triển phẩm chất và năng lực người học.
1.3. Vai trò, ý nghĩa của giáo dục STEM
– Với phương pháp giáo dục STEM, học sinh được thực hành các thí nghiệm khoa học, nhờ đó giúp phát triển khả năng sáng tạo và kỹ năng giải quyết vấn đề. – Với 4 lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, công nghệ và toán học được lồng ghép vào         nhau giúp học sinh vừa có thể nắm bắt kiến thức và rèn luyện kỹ năng thực hành để tạo ra các sản phẩm trong thực tiễn.
– STEM cung cấp cho HS các kỹ năng mềm trong việc giải quyết vấn đề, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng giao tiếp và tư duy phản biện. Trong STEM học sinh luôn được hoạt động theo nhóm nhằm rèn luyện các kỹ năng tốt nhất, thích ứng với các điều kiện đáp ứng được 1 phần mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông tổng thể 2018.
– Sau khi hoàn thành, sản phẩm STEM sẽ được học sinh giới thiệu, qua đó cải thiện kỹ năng thuyết trình, giúp học sinh tự tin hơn, năng động hơn.
– Nhờ sự lồng ghép giữa lý thuyết và thực hành, HS hiểu được những sản phẩm công nghệ không còn quá xa lạ và khó hiểu như trước, giúp HS có niềm đam mê hơn với các môn khoa học.
– Từ quá trình trên, HS rèn luyện được tư duy tổng quát, kiên nhẫn và sáng tạo. Phát hiện được năng khiếu, sở thích năng lực một yếu tố quan trọng để lựa chọn con đường nghề nghiệp cho tương lai.
1.4. Quy trình xây dựng bài học STEM
Bài học STEM được xây dựng theo quy trình gồm các bước như sau:
Bước 1: Lựa chọn chủ đề bài học. Căn cứ vào nội dung kiến thức trong chương trình môn học và các hiện tượng, quá trình gắn với các kiến thức đó trong tự nhiên; quy trình hoặc thiết bị công nghệ có sử dụng của kiến thức đó trong thực tiễn… để lựa chọn chủ đề của bài học.
Bước 2: Xác định vấn đề cần giải quyết. Xác định vấn đề để giao cho HS thực hiện sao cho khi giải quyết vấn đề đó, HS phải học được những kiến thức, kĩ năng cần dạy trong chương trình môn học đã được lựa chọn hoặc vận dụng những kiến thức, kỹ năng đã biết để xây dựng bài học.
Bước 3: Xây dựng tiêu chí của thiết bị/giải pháp giải quyết vấn đề. Phải xác định rõ tiêu chí của giải pháp/sản phẩm. Những tiêu chí này là căn cứ quan trọng để đề xuất giả thuyết khoa học/giải pháp giải quyết vấn đề/thiết kế mẫu sản phẩm.
Bước 4: Thiết kế tiến trình tổ chức hoạt động dạy học. Hoạt động dạy học được thiết kế theo các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực. Các hoạt động học tập được thiết kế rõ ràng về mục đích, nội dung và sản phẩm mà HS phải hoàn thành.
1.5. Kĩ thuật và tiến trình tổ chức các hoạt động trong bài học STEM
Hoạt động 1. Tìm hiểu thực tiễn, phát hiện vấn đề: HS tìm hiểu, thu thập thông tin, để từ đó có hiểu biết về một tình huống thực tiễn; xác định được vấn đề cần giải quyết hoặc đòi hỏi của thực tiễn theo nhiệm vụ được giao; xác định rõ tiêu chí của sản phẩm phải hoàn thành. Gồm các bước:
– Chuyển giao nhiệm vụ: GV thực hiện chuyển giao nhiệm vụ ban đầu cho HS.
Nhiệm vụ phải đảm bảo tính vừa sức để lôi cuốn được HS tham gia thực hiện.
– HS tìm tòi, nghiên cứu: HS tìm hiểu quy trình/thiết bị được giao để thu thập thông tin, xác định vấn đề cần giải quyết và kiến thức liên quan để giải quyết vấn đề.
– Báo cáo và thảo luận: Căn cứ vào kết quả hoạt động tìm tòi, nghiên cứu của HS, GV tổ chức cho các nhóm HS báo cáo, thảo luận, xác định vấn đề cần giải quyết. – Nhận xét, đánh giá: GV đánh giá, nhận xét, giúp HS nêu được các câu hỏi/vấn đề cần tiếp tục giải quyết, xác định được các tiêu chí cho giải pháp cần thực hiện để giải quyết vấn đề đặt ra. Từ đó định hướng cho hoạt động tiếp theo của HS.  Hoạt động 2. Hoạt động nghiên cứu kiến thức nền: Hoạt động này trang bị cho HS kiến thức, kĩ năng theo yêu cầu cần đạt của chương trình GDPT. Gồm các bước:
– Học kiến thức mới: HS nghiên cứu SGK, tài liệu, làm thực hành, thí nghiệm để chiếm lĩnh kiến thức và rèn luyện kĩ năng theo yêu cầu của chương trình để xây dựng và thực hiện giải pháp giải quyết vấn đề đặt ra.
– Giải thích về quy trình: Vận dụng kiến thức mới vừa học và các kiến thức đã biết từ trước, HS cố gắng giải thích về quy trình được tìm hiểu. Qua đó xác định được những vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện theo yêu cầu của nhiệm vụ học tập.
– Báo cáo, thảo luận: GV tổ chức HS trình bày kiến thức mới đã tìm hiểu và vận dụng chúng để giải thích những kết quả đã tìm tòi, khám phá được trong hoạt động 1.
– Nhận xét, đánh giá: Căn cứ vào kết quả của HS, GV nhận xét, đánh giá, “chốt” kiến thức, kĩ năng để HS ghi nhận và sử dụng; làm rõ hơn vấn đề cần giải quyết; xác định rõ tiêu chí của sản phẩm ứng dụng mà HS phải hoàn thành trong hoạt động 3.
Hoạt động 3. Hoạt động giải quyết vấn đề: GV dự kiến các giải pháp giải quyết vấn đề; phương án thí nghiệm để việc định hướng HS thực hiện có hiệu quả. Sau đó, GV tổ chức cho HS trao đổi, thảo luận để lựa chọn hướng đi phù hợp. Gồm các bước:
– Đề xuất giải pháp giải quyết vấn đề: HS thảo luận để đề xuất các ý tưởng khác nhau, sau đó thống nhất lựa chọn giải pháp khả thi nhất để giải quyết vấn đề. – Thử nghiệm giải pháp: HS lựa chọn dụng cụ thí nghiệm và tiến hành thí nghiệm theo phương án đã thiết kế; phân tích số liệu thí nghiệm; rút ra kết luận. – Báo cáo và thảo luận: GV tổ chức các nhóm HS báo cáo kết quả và thảo luận.
– Nhận xét, đánh giá: Trên cơ sở sản phẩm học tập của HS, GV nhận xét, đánh giá; HS ghi nhận các kết quả và tiếp tục chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện sản phẩm.

 

0/5 (0 Reviews)
0/5 (0 Reviews)

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

Đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học nhằm tạo hứng thú học tập và góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn Hóa học lớp 10 theo chương trình giáo dục phổ thông 2018
10
Hóa học
4.5/5

Theo dõi
Thông báo của
guest
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Set your categories menu in Theme Settings -> Header -> Menu -> Mobile menu (categories)
Shopping cart

KẾT NỐI NGAY VỚI KIẾN EDU

Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe và đưa ra giải pháp phù hợp nhất cho vấn đề của bạn.

0886945229

Email

kienedu.com@gmail.com

Đây chỉ là bản XEM THỬ - khách hàng vui lòng chọn mua tài liệu và thanh toán để nhận bản đầy đủ

TẢI TÀI LIỆU

Bước 1: Chuyển phí tải tài liệu vào số tài khoản sau với nội dung: Mã tài liệu

Chủ TK: Ngô Thị Mai Lan

STK Agribank: 2904281013397 Copy
* (Nếu khách hàng sử dụng ngân hàng Agribank thì chuyển tiền vào STK Agribank để tránh bị lỗi treo giao dịch)
STK TPbank: 23665416789 Copy
tài khoản tpbank kienedu

Bước 2: Gửi ảnh chụp giao dịch vào Zalo kèm mã tài liệu để nhận tài liệu qua Zalo hoặc email

Nhắn tin tới Zalo Kiến Edu (nhấn vào đây để xác nhận và nhận tài liệu!)