SKKN Phát triển năng lực thực hành thí nghiệm cho học sinh thông qua một số bài học vật lý
- Mã tài liệu: MP0529 Copy
Môn: | Vật lí |
Lớp: | 11 |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 458 |
Lượt tải: | 7 |
Số trang: | 76 |
Tác giả: | Trần Thị Hồng Hoa |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | THPT Tân Kỳ |
Năm viết: | 2019-2020 |
Số trang: | 76 |
Tác giả: | Trần Thị Hồng Hoa |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | THPT Tân Kỳ |
Năm viết: | 2019-2020 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Phát triển năng lực thực hành thí nghiệm cho học sinh thông qua một số bài học vật lý” triển khai các biện pháp như sau:
Giải pháp 1: Phát huy tối đa việc sử dụng các thí nghiệm trong các bài học vật lý.
Giải pháp 2: Xây dựng các loại phiếu học tập hƣớng dẫn HS chuẩn bị dụng cụ thực hành TN và các bƣớc tiến hành TN.
Giải pháp 3: Phân chia học sinh trong lớp thành các nhóm nhỏ để thực hiện các nhiệm vụ học tập, để HS đƣợc làm nhiều TN nhất.
Giải pháp 4: Hướng dẫn HS tìm kiếm dụng cụ trong đời sống hành ngày và tiến hành thí nghiệm 1 số thí nghiệm đơn giản.
Giải pháp 5: Xây dựng bảng tiêu chí đánh giá cho mỗi bài thực hành thí nghiệm.
Mô tả sản phẩm
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài:
– Mục tiêu của chương trình giáo dục hiện nay là phát triển phẩm chất và năng lực người học nhằm đào tạo ra những con người có khả năng thích ứng với cuộc sống, năng động, sáng tạo và có thể khắc phục được những vướng mắc khó khăn trong quá trình học tập cũng như lao động.
– Với bộ môn vật lý, cùng với việc đổi mới chương trình sách giáo khoa, ngành giáo dục cũng đang thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực hoạt động nhận thức của học sinh, nhằm phát triển năng lực, phẩm chất học sinh, trong đó, việc sử dụng thí nghiệm trong dạy học càng được chú trọng hơn trước bởi hiệu quả của nó trong việc nâng cao khả năng nhận thức, phát triển năng lực, phẩm chất của người học.
– Trong dạy học vật lý, thí nghiệm thực hành đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển năng lực cho người học. Thông qua thực hành thí nghiệm, học sinh được khảo sát, các em được đóng vai trò như các nhà bác học đi tìm kiếm tri thức, kiểm nghiệm lại những lý thuyết mà các em đã được học trong sách vở. Thông qua thực hành thí nghiệm các em cũng thấy được vật lý học không phải là lý thuyết suông, xa rời thực tế mà nó đã đi vào cuộc sống, là nền tảng để phát triển cho các ngành công nghiệp, nông nghiệp…
– Thường thì, do kinh nghiệm sống học sinh đã có một số vốn hiểu biết nào đó về các hiện tượng vật lý. Nhưng không thể coi những hiểu biết ấy là cơ sở giúp các em tự nghiên cứu vật lý bởi vì trước một hiện tượng vật lý, học sinh có thể có những hiểu biết khác nhau, thậm chí là sai.
– Vì vậy, khi giảng dạy vật lý, giáo viên một mặt phải tận dụng những kinh nghiệm sống của học sinh, nhưng mặt khác phải chỉnh lý, bổ sung, hệ thống hoá những kinh nghiệm đó và nâng cao lên mức chính xác, đầy đủ bằng các thí nghiệm vật lý, nhờ đó mà tránh được tính chất giáo điều, hình thức trong giảng dạy.
– Làm các thí nghiệm vật lý có tác dụng to lớn trong việc phát triển nhận thức của học sinh, giúp các em quen dần với phương pháp nghiên cứu khoa học, vì qua đó các em được tập quan sát, đo đạc, được rèn luyện tính cẩn thận, kiên trì, điều đó rất cần cho việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp, chuẩn bị cho học sinh tham gia hoạt động thực tế. Do được tận mắt, tự tay tháo lắp các dụng cụ, thiết bị và đo lường các đại lượng, các em có thể nhanh chóng làm quen với những dụng cụ và thiết bị dùng trong đời sống và sản xuất sau này.
– Thực tế cho biết, hiện nay các đồ dùng thí nghiệm thực hành ở nhiều trường đang còn thiếu hoặc đã có nhưng với số lượng còn ít, chưa thể phục vụ đầy đủ cho việc dạy học cho tất cả các lớp. Hơn nữa, việc sử dụng các thí nghiệm trong một tiết học đòi hỏi người giáo viên phải chuẩn bị dụng cụ, kiểm tra dụng cụ, lắp ráp và phải tiến hành làm thử trước khi lên lớp, nên rất mất thời gian, hoặc có một số giáo viên nghĩ rằng chỉ cần mô tả qua hình ảnh cũng dạy xong bài dạy.
– Đứng trước tình hình đó, là một giáo viên dạy vật lý, chúng tôi chọn đề tài
“Phát triển năng lực thực hành thí nghiệm cho học sinh thông qua một số bài
học vật lý” với mong muốn học sinh của mình có thể tự làm thêm một số thí nghiệm thực hành dưới sự hướng dẫn của giáo viên để các em vừa được học, vừa được thực hành, qua đây giúp các em phát triển thêm nhiều phẩm chất, năng lực đáp ứng với mục tiêu giáo dục mà đất nước ta đang hướng tới.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là giúp trả lời câu hỏi làm thế nào để phát triển năng lực thực hành thí nghiệm cho học sinh trong trong quá trình dạy học vật lý? Làm thế nào để phát huy khả năng tìm kiếm, các dụng cụ thực hành trong đời sống và sử dụng chúng thay thế cho các đồ dùng dạy học khi trong phòng thí nghiệm thực hành của các trường THPT còn chưa đầy đủ? Đồng thời, để học sinh yêu thích môn học vật lý hơn vì biết được các ứng dụng của kiến thức vật lý rất gần gũi với đời sống hàng ngày.
3. Xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu
– Đối tượng nghiên cứu:
+ Phân loại thí nghiệm vật lý và vai trò của thí nghiệm trong dạy học vật lý
+ Tiến trình dạy học ở một số bài học có liên quan đến thí nghiệm vật lý
+ Khả năng thực hành thí nghiệm của học sinh lớp 11 và một số bài học thuộc chương trình sách giáo khoa cơ bản vật lý 11 có sử dụng đến thí nghiệm thực hành
+ Các năng lực cần hình thành cho học sinh khi dạy học môn vật lý
– Phạm vi nghiên cứu:
+Tìm hiểu thực trạng việc dạy học ở một số bài học vật lý có liên quan đến thí nghiệm thực hành ở chương trình cơ bản vật lý lớp 11 ở một số trường THPT trong địa bàn Huyện Tân Kỳ: Tại 4 trường THPT Tân Kỳ, THPT Lê Lợi, THPT Tân Kỳ 3, trung tâm GDNN – GDTX Tân Kỳ.
+ Một số bài học trong chương 1: Điện tích. Điện Trường (vật lý 11)
+ Một số bài học trong chương 2: Dòng điện không đổi (vật lý 11)
+ Một số bài học trong chương 3: Dòng điện trong các môi trường (vật lý 11)
+ Một số bài học trong chương 4:Từ trường (vật lý 11)
+ Một số bài học trong chương 5: Cảm ứng điện từ (vật lý 11)
4. Lựa chọn phương pháp nghiên cứu
-Nghiên cứu lý thuyết:
+Nghiên cứu về vai trò của thí nghiệm thực hành trong dạy học vật lý
+Nghiên cứu về dạy học phát triển năng lực trong môn vật lý
– Nghiên cứu thực tiễn: Tìm hiểu các dụng cụ thực hành thí nghiệm trong điều kiện thực tế phục vụ cho việc dạy học bộ môn vật lý tại một số trường trung học phổ thông trong địa bàn huyện Tân Kỳ
– Nghiên cứu thực nghiệm: Thực nghiệm sư phạm trên các lớp tại trường THPT Tân Kỳ.
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của đề tài
– Đưa ra được giải pháp dạy học phù hợp trong điều kiện một số trường học còn chưa đầy đủ các thiết bị thí nghiệm thực hành.
– Khắc phục tình trạng đồ dùng dạy học đang còn thiếu trong các trường học, bổ sung vào kho các đồ dùng thí nghiệm thực hành trong nhà trường để phục vụ cho việc dạy học.
– Thiết kế được một số thí nghiệm thực hành mới phục vụ cho việc dạy học một số bài học vật lý trong chương trình vật lý 11 cơ bản:
+Bài 1. Điện tích. Định luật Cu long
+ Bài 7. Dòng điện không đổi. Nguồn điện
+Bài 13. Dòng điện trong kim loại
+ Bài 14. Dòng điện trong chất điện phân
+Bài 20. Lực từ. Cảm ứng từ
+Bài 23. Từ thông. Cảm ứng điện từ
– Phát triển năng lực tự chủ, tự học, giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực thực hành vận dụng kiến thức vào thực tiễn cho học sinh trong quá trình học sinh thực hiện nhiệm vụ học tập.
PHẦN II:NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1. 1.Thí nghiệm vật lý
1.1.1.1. Theo quan điểm của lý luận nhận thức
Theo quan điểm của lý luận nhận thức, trong dạy học vật lý ở trường phổ thông, thí nghiệm có các chức năng sau:
a.Thí nghiệm là phương tiện để thu nhận tri thức
-Vai trò của thí nghiệm trong mỗi giai đoạn của quá trình nhận thức phụ thuộc vào vốn hiểu biết của con người vào đối tượng cần nghiên cứu. Nếu học sinh hoàn toàn chưa có hoặc có ít hiểu biết về đối tượng cần nghiên cứu thì thí nghiệm được sử dụng để thu nhận những kiến thức đầu tiên về nó. Khi đó, thí nghiệm được sử dụng như là “câu hỏi đối với tự nhiên” và chỉ có thể thông qua thí nghiệm mới trả lời được câu hỏi này. Việc thiết kế phương án thí nghiệm, tìm kiếm dụng cụ
,tiến hành thí nghiệm, và xử lý kết quả quan sát, đo đạc chính là quá trình tìm câu trả lời cho câu hỏi đã đặt ra. Hay nói cách khác, thí nghiệm được sử dụng để phân tích hiện thực khách quan và thông qua quá trình thiết lập nó một cách chủ quan để thu nhận tri thức khách quan.
-Trong quá trình dạy học vật lý, nhất là ở các lớp dưới và ở giai đoạn đầu của quá trình nhận thức một hiện tượng, quá trình vật lý nào đó, khi học sinh còn chưa có hoặc có hiểu biết ít ỏi về hiện tượng, quá trình vật lý cần nghiên cứu thì thí nghiệm được sử dụng để cung cấp cho học sinh những dữ liệu cảm tính về hiện tượng, quá trình vật lý này. Các dữ liệu này tạo điều kiện cho học sinh đưa ra những giả thuyết, là cơ sở cho những khái quát hoá về tính chất hay mối liên hệ phổ biến, có tính quy luật của các đại lượng vật lý trong hiện tượng, quá trình vật lý được nghiên cứu.
b. Thí nghiệm là phương tiện để kiểm tra tính đúng đắn của tri thức.
-Theo quan điểm của lý luận nhận thức, một trong các chức năng của thí nghiệm trong dạy học vật lý là dùng để kiểm tra tính đúng đắn của các tri thức mà học sinh đã thu được trước đó. Trong nhiều trường hợp, kết quả của thí nghiệm phủ định tính đúng đắn của tri thức đã biết, đòi hỏi phải đưa ra giả thuyết khoa học mới và lại phải kiểm tra nó ở các thí nghiệm khác. Nhờ vậy, thường ta sẽ thu nhận được những tri thức có tính khái quát hơn, bao hàm các tri thức đã biết trước đó như là những trường hợp riêng, trường hợp giới hạn.
-Trong dạy học vật lý ở trường phổ thông, có một số kiến thức được rút ra từ suy luận lôgic một cách chặt chẽ từ các kiến thức đã biết. Trong những trường hợp này, cần tiến hành thí nghiệm để kiểm tra tính đúng đắn của chúng.
c. Thí nghiệm là phương tiện của việc vận dụng tri thức đã thu được vào thực tiễn
Trong việc vận dụng các tri thức lý thuyết vào việc thiết kế, chế tạo các thiết bị kỹ thuật, người ta thường gặp nhiều khó khăn do tính trừu tượng của tri thức sử dụng, tính phức tạp chịu sự chi phối bởi nhiều định luật của các thiết bị cần chế tạo, hoặc do lý do về kinh tế hay những nguyên nhân về mặt an toàn. Khi đó, thí nghiệm được sử dụng như là phương tiện tạo cơ sở cho việc vận dụng các tri thức đã thu được vào thực tiễn. Cơ sở của việc này là tiến hành thí nghiệm với các mô hình, làm tiền đề cho việc chế tạo những dụng cụ, những thiết bị sử dụng trong thực tế.
Lịch sử phát triển của vật lý còn làm xuất hiện nhiều ngành vật lý mới, ví dụ như thí nghiệm về hiệu ứng quang điện tạo cơ sở cho sự ra đời của ngành kỹ thuật quang điện.
Chương trình vật lý ở trường phổ thông đề cập tới một loạt các ứng dụng của vật lý trong đời sống và sản xuất. Việc tiến hành thí nghiệm tạo cơ sở để học sinh hiểu được các ứng dụng của những kiến thức đã học trong thực tiễn.
Thí nghiệm không những cho học sinh thấy được những ứng dụng trong thực tiễn mà còn là bằng chứng sự đúng đắn của các kiến thức này.
1.1.1.2. Theo quan điểm của lý luận dạy học
a.Thí nghiệm có thể được sử dụng ở tất cả các giai đoạn khác nhau của quá trình dạy học
Thí nghiệm có thể được sử dụng ở tất cả các giai đoạn khác nhau của quá trình dạy học: đề xuất vấn đề cần nghiên cứu; hình thành kiến thức, kỹ năng mới; củng cố, vận dụng kiến thức, kỹ năng đã thu nhận được và kiểm tra, đánh giá kiến thức, kỹ năng của học sinh.
– Ở giai đoạn định hướng mục đích nghiên cứu, có thể sử dụng thí nghiệm để đề xuất vấn đề cần nghiên cứu. Đặc biệt có hiệu quả là việc sử dụng thí nghiệm để tạo tình huống có vấn đề. Do kết quả của thí nghiệm mâu thuẫn với kiến thức đã biết, với kinh nghiệm sẵn có hoặc trái ngược với sự chờ đợi của học sinh nên nó tạo ra nhu cầu, hứng thú tìm tòi kiến thức mới của học sinh.Các thí nghiệm được sử dụng để tạo tình huống có vấn đề thường là các thí nghiệm đơn giản, tốn ít thời gian chuẩn bị và tiến hành.Thí nghiệm có vai trò quan trọng, không gì thay thế được trong giai đoạn hình thành kiến thức mới. Nó cung cấp một cách hệ thống các cứ liệu thực nghiệm, để từ đó khái quát hoá quy nạp, kiểm tra được tính đúng đắn của giả thuyết hoặc hệ quả lôgic rút ra từ giả thuyết đã đề xuất, hình thành kiến thức mới.
Trong chương trình vật lý ở trường phổ thông, một số kiến thức được rút ra bằng phép suy luận lôgic chặt chẽ từ các kiến thức đã được xác nhận là chính xác. Vì vậy, các kiến thức rút ra này là đúng đắn. Tuy nhiên, để thể hiện tính chất thực nghiệm của khoa học vật lý và làm tăng sự tin tưởng của học sinh vào tính chân thật của kiến thức thu được, giáo viên cũng cần tiến hành các thí nghiệm kiểm nghiệm lại chúng.
– Thí nghiệm có thể được sử dụng một cách đa dạng trong quá trình củng cố kiến thức, kỹ năng của học sinh và vận dụng vào thực tiễn những kiến thức đã học
. Việc củng cố kiến thức, kỹ năng của học sinh được tiến hành ngay ở mỗi bài học nghiên cứu tài liệu mới, trong các bài học dành cho việc luyện tập, các tiết ôn tập và các giờ thí nghiệm thực hành sau mỗi chương, mỗi phần của chương trình vật lý phổ thông. Quá trình củng cố kiến thức, kỹ năng của học sinh không những diễn ra trong các giờ học nội khoá mà cả trong các giờ học ngoại khoá, ở lớp và ở nhà.
– Thí nghiệm là phương tiện để kiểm tra, đánh giá kiến thức và kỹ năng của học sinh. Thông qua các hoạt động trí tuệ – thực tiễn của học sinh trong quá trình thí nghiệm (thiết kế phương án thí nghiệm, dự đoán giải thích hiện tượng, quá trình vật lý diễn ra trong thí nghiệm, lựa chọn các dụng cụ thí nghiệm cần thiết, lắp ráp các dụng cụ và bố trí thí nghiệm, tiến hành thí nghiệm, thu nhận và xử lý kết quả thí nghiệm…), học sinh sẽ chứng tỏ không những kiến thức về sự kiện mà cả kiến thức về phương pháp, kỹ năng của mình. Để kiểm tra, đánh giá mức độ nắm vững kiến thức và kỹ năng của học sinh, giáo viên có nhiều cách thức sử dụng thí nghiệm khác nhau, từ dụng cụ quen thuộc đến xa lạ, mới mẻ, từ bố trí đơn giản đến yêu cầu bố trí phức tạp, v.v.
b.Thí nghiệm là phương tiện góp phần phát triển toàn diện nhân cách của học sinh
Việc sử dụng thí nghiệm trong dạy học vật lý góp phần quan trọng vào việc phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh.
-Thí nghiệm là phương tiện để nâng cao chất lượng kiến thức và rèn luyện kỹ năng thực hành vật lý của học sinh.
Chất lượng kiến thức của học sinh được xem xét theo các dấu hiệu: tính chính xác, tính khái quát, tính hệ thống, tính bền vững và tính vận dụng được. Bởi vì thí nghiệm luôn có mặt trong các quá trình nghiên cứu các hiện tượng, quá trình vật lý, soạn thảo khái niệm, định luật vật lý, xây dựng các thuyết vật lý, đề cập các ứng dụng trong sản xuất và đời sống. Vì vậy, nó là phương tiện góp phần nâng cao chất lượng kiến thức của học sinh theo các dấu hiệu trên.
Thí nghiệm vật lý góp phần phát hiện và khắc phục các sai lầm của học sinh và khẳng định các dự đoán đúng.Do thí nghiệm vật lý là một bộ phận của phương pháp nhận thức vật lý nên trong mối quan hệ với quá trình thí nghiệm, học sinh sẽ được làm quen và vận dụng các phương pháp nhận thức này. Các kiến thức về phương pháp mà học sinh lĩnh hội có ý nghĩa quan trọng, vượt khỏi giới hạn môn vật lý.
Trong các thí nghiệm do mình tự tiến hành, học sinh được rèn luyện các kỹ năng, kỹ xảo thí nghiệm như: sử dụng các nguồn điện, đồng hồ đo điện đa năng, đọc và lắp ráp thí nghiệm theo sơ đồ thí nghiệm, sơ đồ mạch điện,…và được giáo dục các thói quen làm việc khoa học của người làm thí nghiệm như: lựa chon dụng cụ, bố trí thí nghiệm, lắp ráp các bộ phận thí nghiệm, xử lý các kết quả thí nghiệm,
bảo đảm các điều kiện mà thí nghiệm phải thoả mãn, đánh giá, phân tích sai số khi xử lý kết quả thí nghiệm.
-Thí nghiệm là phương tiện kích thích hứng thú học tập vật lý, tổ chức quá trình học tập tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh.
Trong quá trình thí nghiệm, học sinh phải tiến hành một loạt các hoạt động trí tuệ – thực tiễn: thiết kế phương án, kế hoạch thí nghiệm, vẽ sơ đồ thí nghiệm, lập bảng giá trị đo, lựa chọn dụng cụ, bố trí và tiến hành thí nghiệm, thu nhận và xử lý kết quả thí nghiệm, tính toán sai số, xác định nguyên nhân gây sai số. Chính vì vậy, thí nghiệm là phương tiện hữu hiệu để bồi dưỡng năng lực sáng tạo của học sinh.
Trong quá trình thí nghiệm, việc bồi dưỡng các yếu tố của năng lực thực nghiệm phải được gắn kết với việc bồi dưỡng các yếu tố của năng lực hoạt động trí tuệ như: năng lực đề xuất giả thuyết, phân tích, mô tả các hiện tượng, quá trình vật lý, tổng hợp các mặt, các khía cạnh trong mối liên hệ với nhau, khái quát hoá thành những kết luận tổng quát nhờ phép quy nạp, sau đó đối chiếu các kết luận này với giả thuyết đã đề xuất, và giải thích, so sánh các hiện tượng, quá trình vật lý, các ứng dụng trong sản xuất và đời sống của kiến thức đã học.
Quá trình làm việc tự lực với thí nghiệm của học sinh sẽ kích thích sự hứng thú nhận thức, lòng ham muốn nghiên cứu, tạo niềm vui của sự thành công khi giải quyết được nhiệm vụ đặt ra và góp phần phát triển động lực quá trình học tập của học sinh.
– Thí nghiệm là phương tiện tổ chức các hình thức làm việc tập thể khác nhau, bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức của học sinh.
Các thí nghiệm do các nhóm học sinh tiến hành đòi hỏi sự phân công, phối hợp những công việc tự lực của học sinh trong tập thể. Vì vậy, trong quá trình thí nghiệm đã diễn ra một quá trình bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức, xây dựng các chuẩn mực hành động tập thể.
Trong mối liên hệ với quá trình tự lực xây dựng kiến thức ở các thí nghiệm, học sinh thu nhận được những quan điểm quan trọng của thế giới quan duy vật, đặc biệt là vai trò của thực tiễn trong quá trình nhận thức thế giới, có niềm tin vào khoa học và nhận thức các sự vật, hiện tượng của tự nhiên.
c.Thí nghiệm là phương tiện đơn giản hoá và trực quan trong dạy học
vật lý
– Trong tự nhiên và kỹ thuật, rất ít các hiện tượng, quá trình vật lý xảy ra
dưới dạng thuần khiết. Chính nhờ thí nghiệm, ta có thể nghiên cứu các hiện tượng, quá trình xảy ra trong những điều kiện có thể khống chế được, thay đổi được, có thể quan sát, đo đạc đơn giản hơn, dễ dàng hơn để đi tới nhận thức được nguyên nhân của mỗi hiện tượng và mối quan hệ có tính quy luật giữa chúng.
– Thí nghiệm là phương tiện trực quan giúp học sinh nhanh chóng thu nhận được những thông tin chân thực về các hiện tượng, quá trình vật lý. Đặc biệt trong việc nghiên cứu các lĩnh vực của vật lý mà ở đó, đối tượng cần nghiên cứu không thể tri giác trực tiếp bằng các giác quan của con người thì việc sử dụng trong dạy học vật lý các thí nghiệm mô hình để trực quan hoá các hiện tượng, quá trình cần nghiên cứu là không thể thiếu được.
1.1.2. Phân loại thí nghiệm vật lý
Tùy theo mục đích sử dụng thí nghiệm biễu diễn theo các bước khác nhau của tiến trình dạy học, các thí nghiệm biểu diễn có thể phân thành ba loại : thí nghiệm biểu diễn mở đầu, thí nghiệm biểu diễn nghiên cứu hiện tượng mới và thí nghiệm củng cố, vận dụng những kiến thức đã học.
1.1.2.1. Thí nghiệm biểu diễn mở đầu
Thí nghiệm mở đầu là những thí nghiệm được dùng nhằm mục đích đề xuất vấn đề nghiên cứu thường là thí nghiệm nhỏ do G tiến hành hoặc có thể học sinh tự tiến hành để đặt vấn đề cho bài học mới nhằm kích thích học sinh có hứng thú tìm hiểu vấn đề mới có trong bài học.
1.1.2.2. Thí nghiệm nghiên cứu hiện tượng mới
Thí nghiệm nghiên cứu hiện tượng là những thí nghiệm nhằm xây dựng, chứng minh kiến thức mới, bao gồm:
-Thí nghiệm khảo sát xây dựng kiến thức : thí nghiệm nhằm khảo sát sự kiện, thu lượm dữ liệu thực nghiệm để từ đó rút ra kết luận khái quát, là kiến thức mới cần xây dựng.
-Thí nghiệm kiểm chứng kiến thức : thí nghiệm nhằm kiểm tra để xác nhận trên thực tế điều kết luận đã được nêu ra, là kiến thức mới cần dạy.
1.1.2.3. Thí nghiệm củng cố, vận dụng
Thí nghiệm củng cố, vận dụng là những thí nghiệm giáo viên dùng trong khâu củng cố bài học nhằm giúp cho học sinh vận dụng kiến thức đã học để giải thích, dự đoán hiện tượng, ứng dụng trong thực tiễn, qua đó nắm vững được kiến thức đã học.
1.1.3. Cơ sở lí luận của việc dạy học theo định hướng hình thành và phát triển năng lực học sinh hiện nay
1.1.3.1. Năng lực là gì?
Khi nghiên cứu về định hướng phát triển năng lực có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm năng lực.
Theo quan điểm của những nhà tâm lý học: năng lực là tổng hợp các đặc điểm, thuộc tính, tâm lý của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt kết quả cao. Một cách định nghĩa khác trong từ điển trên mạng: Năng lực là khả năng làm việc tốt, nhờ có phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn.“Năng lực” theo Từ điển tiếng Việt là khả năng đủ để làm một công việc nào đó hay “Năng lực” là những điều kiện được tạo ra hoặc vốn có để thực hiện một hoạt động nào đó
Dựa vào quan niệm khác nhau về năng lực chúng ta có thể đưa ra khái niệm chung nhất: Năng lực là khả năng thực hiện một hoạt động có ý nghĩa. Khi thực hiện hoạt động này, người ta phải vận dụng kiến thức, kinh nghiệm, sử dụng các kĩ năng của bản thân một cách chủ động và trách nhiệm.
1.1.3.2. Cấu trúc năng lực
Theo tài liệu chương trình tổng thể (Ban hành theo thông tư số 32/ 2018/TT- BGDDT): Chương trình giáo dục phổ thông hình thành và phát triển cho HS các năng lực cốt lõi: bao gồm các năng lực chung và năng lực đặc thù.
– Những năng lực chung được hình thành, phát triển thông qua tất cả các môn học và hoạt động giáo dục bao gồm : năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
– Những năng lực đặc thù được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học và hoạt động giáo dục nhất định bao gồm : năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực khoa học, năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mỹ, năng lực thể chất.
1.1.3.3. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực
Là hình thức dạy học đặt học sinh làm trung tâm, quan trọng, tự học sinh tìm tòi, khám phá dưới sự hướng dẫn của GV, giúp học sinh chủ động tất cả các kế hoạch, công việc của mình, HS không chỉ nắm vững kiến thức mà con biết hoạt động trong thực tiễn.
1.1.3.4. Định hướng dạy học hình thành và phát triển năng lực cho học sinh trong môn Vật lý
Học sinh học môn vật lý giúp hình thành và phát triển các năng lực chuyên biệt theo tài liệu tập huấn như sau:
Nhóm năng lực làm chủ và phát triển bản thân
1. Năng lực tự học
– Lập được kế hoạch tự học và điều chỉnh, thực hiện kế hoạch có hiệu quả.
-Tìm kiếm thông tin về nguyên tắc cấu tạo, hoạt động của các ứng dụng kĩ thuật.
– Đánh giá được mức độ chính xác nguồn thông tin.
– Đặt được câu hỏi về hiện tượng sự vật quanh ta.
– Tóm tắt được nội dung vật lí trọng tâm của văn bản khối.
– Tóm tắt thông tin bằng sơ đồ tư duy, bản đồ khái niệm, bảng biểu, sơ đồ
– Tự đặt câu hỏi và thiết kế, tiến hành được phương án thí nghiệm để trả lời cho các câu hỏi đó.
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 7
- 107
- 1
- [product_views]
100.000 ₫
- 1
- 477
- 2
- [product_views]
100.000 ₫
- 4
- 499
- 3
- [product_views]
100.000 ₫
- 6
- 535
- 4
- [product_views]
100.000 ₫
- 1
- 566
- 5
- [product_views]
100.000 ₫
- 2
- 422
- 6
- [product_views]
100.000 ₫
- 2
- 442
- 7
- [product_views]
100.000 ₫
- 8
- 578
- 8
- [product_views]
100.000 ₫
- 9
- 538
- 9
- [product_views]
100.000 ₫
- 6
- 389
- 10
- [product_views]