SKKN Phát triển năng lực tự học môn Hoá học cho học sinh lớp 12 thông qua blog học tập online
- Mã tài liệu: MP0637 Copy
Môn: | Hóa học |
Lớp: | 12 |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 693 |
Lượt tải: | 5 |
Số trang: | 44 |
Tác giả: | Lê Thị Minh Hằng |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | THPT Nguyễn Đức Mậu |
Năm viết: | 2021-2022 |
Số trang: | 44 |
Tác giả: | Lê Thị Minh Hằng |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | THPT Nguyễn Đức Mậu |
Năm viết: | 2021-2022 |
Điều tra thực trạng về ứng dụng CNTT của HS ở trường THPT Nguyễn Đức Mậu, thông qua phiếu điều tra từ 352 HS. Kết quả điều tra là cơ sở để chúng tôi đề xuất biện pháp phát triển NLTH hóa học cho HS THPT.
– Thiết kế blog và hệ thống học liệu đặc biệt là hệ thống bài tập trắc nghiệm online nhằm mục đích hỗ trợ cho việc phát triển NLTH hóa học cho HS lớp 12 trường THPT Nguyễn Đức Mậu (tại địa chỉ http://chemistry24h.blogspot.com/)
– Đề xuất các bước vận dụng website và hệ thống bài tập trắc nghiệm online vào quá trình phát triển NLTH hóa học ở cả ba hình thức: trước, trong và sau khi lên lớp.
– Tiến hành TNSP ở 4 lớp thuộc lớp 12 trường THPT Nguyễn Đức Mậu. Kết quả đã được xử lí theo phương pháp thống kê toán học trong nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng. Từ những kết quả phân tích định tính và định lượng đã chứng tỏ được tính khả thi và hiệu quả của việc sử dụng blog và hệ thống bài tập trắc nghiệm online vào việc phát triển NLTH hóa học cho HS lớp 12
Mô tả sản phẩm
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Sự phát triển của khoa học công nghệ ngày nay đã tạo ra vô số các sản phẩm chất lượng cao cho xã hội nói chung và giáo dục nói riêng, đòi hỏi mỗi quốc gia phải luôn sáng tạo, phải thích ứng kịp thời trước những chuyển biến không ngừng của cuộc sống và công nghệ. Nhằm giải quyết những thách thức đó, ngành Giáo dục và Đào tạo cần đi đầu và đảm nhận sứ mệnh nâng cao dân trí, phát hiện và bồi dưỡng nhân tài theo định hướng nâng cao giá trị chất xám. Phát triển năng lực (NL), đặc biệt là năng lực tự học (NLTH) đang trở thành xu hướng trong đổi mới dạy học của nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam chúng ta. Lí thuyết này đã xuất hiện từ thời cổ đại với ông tổ Socrate và phát triển cực thịnh vào những năm 90 của thế kỉ XX, nó mang đến một quan điểm mới trong việc thay đổi quan điểm dạy học, phát huy tối đa vai trò của người học, góp phần chuyển dần từ đào tạo sang tự đào tạo trong giáo dục. Như vậy, có thể thấy rằng NLTH là NL quan trọng được nhiều nước trên thế giới tập trung chú ý phát triển cho người học, bởi lẽ nó là cơ sở, là nền tảng để phát triển NL sáng tạo.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI của Ban chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế (Nghị quyết số 29-NQ/TW) nhấn mạnh mục tiêu chiến lược phát triển giáo dục “tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, NL công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh (HS). Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lí tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, NL và kĩ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học (TH), khuyến khích học tập suốt đời”. “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích TH, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển NL. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) trong dạy và học”.
Mục 3 điều 30 của Luật Giáo dục sửa đổi bổ sung có hiệu lực thi hành ngày 14 tháng 6 năm 2019 ghi rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS phù hợp với đặc trưng từng môn học, lớp học và đặc điểm đối tượng HS; bồi dưỡng phương pháp TH, hứng thú học tập, kĩ năng hợp tác, khả năng tư duy độc lập; phát triển toàn diện phẩm chất và NL của người học; tăng cường ứng dụng ICT vào quá trình giáo dục”.
Với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin (CNTT), các thiết bị số phần nào đã đáp ứng được nhu cầu cho công tác dạy và học nói chung và bộ môn Hóa học nói riêng. Trong chương trình giáo dục phổ thông thì NL tin học là một trong mười NL cốt lõi mà HS cần phải có được khi hoàn tất chương trình giáo dục phổ thông. Chính vì lẽ đó mà giáo viên (GV) cần hình thành và phát triển NL cũng như ứng dụng ICT cho HS trong chính bộ môn của mình. Tuy nhiên việc ứng dụng chính CNTT vào công tác dạy và học đặc biệt là quá trình tự rèn luyện, phát triển tư duy của HS còn hạn chế, chưa khai thác được thế mạnh của CNTT.
Hóa học là một môn khoa học với dung lượng kiến thức lí thuyết và các dữ liệu thực nghiệm phong phú và đa dạng. Việc học để hiểu, nhớ và vận dụng chúng luôn là áp lực đối với đa số HS ở trường trung học phổ thông (THPT). Nếu có một website hỗ trợ cho HS phát triển NLTH thông qua hệ thống bài tập trắc nghiệm thì sẽ giúp cho HS phát triển NLTH và tạo hứng thú cho HS trong việc học tập môn Hóa học nhờ việc ứng dụng học liệu điện tử.
Trong thời gian phòng chống đại dịch do chủng virus Corona (COVID-19) diễn ra đến nay, hàng triệu HS trong cả nước đã và đang phải tạm ngừng đến trường và tiến hành học và TH online tại nhà, thiếu thốn về tài liệu học tập cũng như rất khó khăn trong việc tương tác và kiểm tra năng lực lĩnh hội giữa GV và HS đã tác động rất lớn tới sự phát triển và lĩnh hội tri thức khoa học.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi thực hiện đề tài: “Phát triển năng lực tự học môn Hoá học cho học sinh lớp 12 thông qua blog học tập online”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu hóa học online góp phần phát triển NLTH môn Hóa học cho các HS lớp 12 ở trường THPT.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
– Nghiên cứu về cơ sở lí luận của việc ứng dụng CNTT trong dạy học.
– Nghiên cứu về cơ sở lí luận của TH và phát triển NLTH.
– Xây dựng hệ thống kiến thức hỗ trợ phát triển NLTH hóa học online.
– Thiết kế blog hỗ trợ quá trình TH của HS.
– Nghiên cứu về thực trạng phát triển NLTH, NL ứng dụng CNTT của HS.
– Thực nghiệm sư phạm TNSP.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
– Lập trình Google App Script (GAS).
– Blog học tập.
– NLTH môn Hóa học của HS lớp 12.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
– Nghiên cứu các văn bản, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước, của Bộ Giáo dục và Đào tạo có liên quan đến ứng dụng CNTT trong dạy học.
– Nghiên cứu cơ sở lí thuyết về phát triển NLTH của HS.
– Nghiên cứu cơ sở lí thuyết về lập trình GAS và blog.
5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
– Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi đối với GV và HS về thực trạng ứng dụng CNTT trong dạy học và thực trạng phát triển NLTH Hóa học của HS.
– Phương pháp TNSP để kiểm nghiệm giá trị thực tiễn, tính khả thi và hiệu quả của các kết quả nghiên cứu.
5.3. Nhóm phương pháp xử lí thông tin
Sử dụng phương pháp thống kê toán học trong nghiên cứu khoa học giáo dục để xử lí, phân tích kết quả TNSP nhằm xác nhận giả thuyết khoa học và đánh giá tính hiệu quả, tính khả thi của đề tài.
6. Những đóng góp mới của đề tài
– Về mặt lí luận: góp phần làm sáng tỏ cơ sở lí luận về NLTH, làm cơ sở cho việc phát triển NLTH môn Hóa học cho HS lớp 12 ở trường THPT.
– Về mặt thực tiễn: Điều tra thực trạng về ứng dụng CNTT trong việc phát triển NLTH của HS; xây dựng blog, hệ thống kiến thức hóa học online hỗ trợ cho quá trình phát triển NLTH của HS.
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc ứng dụng công nghệ thông tin để phát triển năng lực tự học cho học sinh
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Giáo dục dựa trên nền tảng phát triển NL (Competency-Based Education – CBE) được đề cập đến rất nhiều từ những năm 60 của thế kỉ XX tại các nước phương Tây và Hoa Kỳ.
Tại các nước châu Á (Singapore, Ấn Độ, Philippines, Brunei, Malayxia, Hàn Quốc, Nhật Bản,…), phương thức giáo dục dựa trên định hướng phát triển NL cũng được phát triển rộng rãi và triển khai ở nhiều mức độ khác nhau trong đó chú trọng đến việc hình thành kiến thức và kỹ năng để người học có NL vận dụng vào ngay trong thực tiễn, lúc đó người học biến tri thức của loài người thành vốn tri thức, kinh nghiệm, kĩ năng của bản thân chủ thể và cốt lõi trong đó là thái độ học tập tích cực của học sinh biểu hiện ở chỗ học sinh chú ý, hứng thú và sẵn sàng gắng sức vượt khó khăn của bản thân.
Tại Việt Nam, trong chương trình phổ thông tổng thể 2018 đã và đang được triển khai được kì vọng là sự đột phá trong cách tiếp cận nội dung khoa học trên nền tảng phát triển NL trong đó có cả NL ứng dụng CNTT.
Trong việc ứng dụng CNTT, GV có nhiều cách để sử dụng ICT hiệu quả, trong đó: sử dụng hợp lí ICT làm tăng giá trị các hoạt động học tập, liên kết ICT vào các hoạt động dạy và học, khuyến khích người học chia sẽ những ý tưởng và tìm kiếm thông tin,… Các nghiên cứu về sử dụng ICT trong giáo dục hóa học đã mang lại nhiều lợi ích cho cả người dạy lẫn người học có thể kể đến: tạo thư viện mô phỏng hỗ trợ học tập với môi trường đa phương tiện cho môn hóa học; mô hình hóa phân tử trên máy tính; thế giới ảo; bảng tương tác.
Trước bối cảnh đó, việc xác định các khó khăn cũng như thách thức đối với quá trình ứng dụng CNTT trong dạy học là điều rất cần thiết, để từ đó đề ra các giải pháp nhằm tăng cường và cải thiện việc ứng dụng CNTT trong dạy học. Nhiều công trình nghiên cứu đã phân loại những rào cản này thành các nhóm điển hình. Trong báo cáo tổng kết về các rào cản trong việc ứng dụng CNTT của GV đúc kết từ nhiều công trình nghiên cứu và quá trình khảo sát thực tế phân loại thành hai nhóm rào cản chính gồm:
– Nhóm ở mức độ cá nhân GV như thiếu thời gian, thiếu sự tự tin, thiếu NL về công nghệ.
– Nhóm thuộc cấp độ quản lí như thiếu những khóa đào tạo huấn luyện hiệu quả, thiếu các phương tiện kĩ thuật,…
Trong thời kì phát triển như vũ bão của CNTT và các thiết bị số, việc ứng dụng CNTT trong dạy học nói chung và dạy học bộ môn Hóa học nói riêng là một trong những vấn đề cấp thiết góp phần vào công cuộc đổi mới phương pháp và nội dung dạy học trên toàn thế giới nói chung và giáo dục Việt Nam nói riêng. Việc ứng dụng và xâu kết các nội dung để truyền tải tới HS và HS tiếp cận nội dung kiến thức một cách chủ động lại là việc cấp thiết phải trăn trở. Giáo dục Việt Nam ta đã và đang có sự chuyển mình mạnh mẽ ở tất cả các cấp, bậc học về đổi mới phương pháp từ việc dạy, việc học, việc kiểm tra đánh giá và đặc biệt là tự nghiên cứu và tự đánh giá kiến thức của HS.
Với việc phát triển mạnh CNTT, hệ thống thiết bị số như: máy tính, điện thoại thông minh, tivi thông minh, máy tính bảng,… việc tìm kiếm thông tin khoa học trên các trang mạng không còn khó nhưng không phải ai, không phải HS nào cũng có khả năng làm tốt việc này. Một mặt hạn chế rất lớn là đại đa số các phần mềm, website ứng dụng trong dạy và học ngày nay rất hạn chế ở các phiên bản mang tính thuần Việt và thậm chí phải trả phí. Dẫn đến một rào cản rất lớn trong quá trình học tập của HS và GV khi sử dụng CNTT ngoài yếu tố công nghệ còn là yếu tố về trình độ ngoại ngữ và vấn đề tài chính gia đình.
Ở Việt Nam, việc ứng dụng CNTT phổ biến ở dạng nghiên cứu ứng dụng, GV dựa trên tài liệu in để chuyển thể thành các tài liệu phục vụ cho quá trình dạy học. Điển hình cho dạng nghiên cứu này là giáo trình được đăng tải trên trang “Thư viện học liệu điện tử” của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Bên cạnh các trang web hỗ trợ quá trình dạy học chính thức của Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trường đại học, các tổ chức giáo dục trong cả nước đã và đang xây dựng hệ thống thư viện điện tử và được tích hợp trên hệ thống quản lí học tập (LMS) để tạo các khóa học phục vụ cho quá trình dạy và học hiệu quả, đáp ứng tốt yêu cầu của đào tạo. Chẳng hạn như: thư viện trực tuyến Violet; hệ thống học trực tuyến của các trường đại học như: Đại học Vinh; Đại học Cần Thơ; Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh; các website dạy học online như: hocmai.vn; vungoi.vn; vietjack.com;…
Một số tác giả đã xuất bản các tài liệu ứng dụng ICT trong dạy và học hóa học cho GV và sinh viên Sư phạm Hóa học như Cao Cự Giác; Trần Trung Ninh, Phạm Ngọc Bằng…
Tuy là khác nhau về cách thức, khác nhau về nội dung nhưng tất cả các đề tài nghiên cứu đều chung một mục đích là góp phần vào sự đổi mới và phát triển của giáo dục nước nhà trong thời đại công nghệ số.
Như vậy, qua các công trình khoa học đã công bố, các website đang hoạt động cho thấy việc phát triển NL cũng như việc sử dụng CNTT trong dạy học đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, vấn đề nghiên cứu về thiết kế website hỗ trợ cho quá trình phát triển NLTH Hóa học cho HS thông qua hệ thống bài tập trắc nghiệm online hoàn toàn miễn phí ở các trường phổ thông vẫn còn ít được quan tâm và phát triển
1.2. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy và học
Trong lịch sử phát triển của giáo dục học đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về phương tiện dạy học. Phương tiện dạy học là một tập hợp những đối tượng vật chất được GV sử dụng với tư cách là phương tiện để điều khiển hoạt động nhận thức của HS. Còn đối với HS, nó là nguồn cung cấp tri thức cần lĩnh hội, thứ để tạo ra tri thức, kĩ năng, kỹ xảo và phục vụ mục đích giáo dục. Phương tiện dạy học được bao gồm tập hợp các khách thể vật chất, tinh thần đóng vai trò phụ trợ để giúp cho thầy và trò có thể thực hiện những mục đích, nhiệm vụ và nội dung của quá trình giáo dục.
Trong lí luận dạy học, thuật ngữ phương tiện dạy học được dùng để chỉ những thiết bị dạy học (như các loại đồ dùng trực quan, dụng cụ máy móc…), những trang thiết bị, kỹ thuật mà thầy trò dùng khi giải quyết nhiệm vụ dạy học, nó không dùng để chỉ các hoạt động của GV và HS. Phương tiện dạy học là công cụ tiến hành thực hiện nhiệm vụ của hoạt động dạy và học, giúp cho người dạy và người học tác động tới đối tượng nghiên cứu nhằm phát hiện ra logic nội tại, nắm bắt và nhận thức được bản chất của nó để tạo nên sự phát triển những phẩm chất nhân cách cho người học.
Lúc đó, CNTT với những phần mềm, website giáo dục được xây dựng nhằm mục đích hỗ trợ cho quá trình dạy và học, là một tập hợp các câu lệnh được viết theo một ngôn ngữ lập trình nào đó, để yêu cầu máy tính thực hiện các thao tác cần thiết (cập nhật, lưu giữ, xử lí dữ liệu và truy xuất thông tin) theo một kịch bản (giải thuật) và yêu cầu đã được định trước. Bao hàm trong nó những tri thức của khoa học giáo dục và các kĩ thuật của ICT. Hay nói cách khác, CNTT trong giáo dục là sản phẩm được kết tinh từ hai loại chuyên gia: sư phạm và tin học.
Mục tiêu của ngành giáo dục là không ngừng đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng giáo dục ở tất cả các cấp học. Trong đó, ứng dụng CNTT trong dạy học đang được đẩy mạnh và nhân rộng trong toàn ngành hiện nay.
– Đối với GV: đầu tiên, ứng dụng ICT trong dạy học giúp GV nâng cao tính sáng tạo và trở nên linh hoạt hơn trong quá trình dạy học của mình. Cụ thể, các thầy cô không chỉ bó buộc trong khối lượng kiến thức hiện có mà còn được tìm hiểu thêm về tin học và học hỏi các kĩ năng sử dụng hình ảnh, âm thanh trong việc thiết kế bài giảng. Ngoài ra, ứng dụng ICT trong dạy học còn giúp GV có thể chia sẻ bài giảng với đồng nghiệp, cùng nhau thảo luận và nâng cao chất lượng giáo án của mình. Hơn hết, GV có thể tương tác với chính HS của mình với khối lượng kiến thức khổng lồ thông qua ICT.
– Đối với HS: đối tượng thứ hai được hưởng lợi trực tiếp từ việc ứng dụng ICT trong dạy học đó chính là HS. Các em được tiếp cận phương pháp dạy học mới hấp dẫn hơn hẳn phương pháp đọc-chép truyền thống. Ngoài ra, sự tương tác giữa thầy cô và trò cũng được cải thiện đáng kể, HS có nhiều cơ hội được thể hiện quan điểm cũng như chính kiến riêng của mình. Điều này không chỉ giúp các em ngày thêm tự tin mà còn để cho GV hiểu thêm về NL, tính cách và mức độ tiếp thu kiến thức của học trò, từ đó có những điều chỉnh phù hợp và khoa học trong dạy học. Hơn thế nữa, việc được tiếp xúc nhiều với ICT trong lớp học còn mang đến cho các em những kĩ năng tin học cần thiết ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường cũng như tạo hứng thú trong học tập. Đây sẽ là nền tảng và sự trợ giúp đắc lực giúp HS đa dạng và sáng tạo các buổi thuyết trình trước lớp, đồng thời tăng cường khả năng tìm kiếm thông tin cho bài học của chính các em.
– Đối với xã hội: từ lâu, việc ứng dụng CNTT trong dạy học đã được thực hiện ở rất nhiều nước phát triển trên thế giới. Hiện nay ở Việt Nam, tuy khoảng thời gian ứng dụng công nghệ trong dạy học tại các trường học còn khá ngắn, nhưng những lợi ích của điều đó đã được thể hiện rõ nét. Chất lượng GV được nâng cao, các phương pháp dạy học được thay đổi theo chiều hướng tích cực.
1.3. Năng lực và năng lực tự học của học sinh với môn Hóa học
1.3.1. Năng lực
Khái niệm NL có nguồn gốc tiếng La tinh “Competenia” có nghĩa là gặp gỡ. Trong tiếng Anh có các từ có nghĩa NL như: competence, ability, capability, efficiency, potentiality,… Tuy nhiên, thuật ngữ được nhiều tác giả sử dụng phổ biến nhất hiện nay là Competence.
Phạm trù NL thường được hiểu theo theo các cách khác nhau, mỗi cách có những thuật ngữ tương ứng. Có thể chia thành hai nhóm chính gồm nhóm lấy dấu hiệu tố chất tâm lí và nhóm lấy dấu hiệu về các yếu tố thành khả năng hành động.
Theo tài liệu chương trình giáo dục phổ thông tổng thể của Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017): “NL là sự huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,… để thực hiện một loại công việc trong một bối cảnh nhất định”. NL được cho là sự huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí… để thực hiện một loại công việc trong một bối cảnh nhất định.
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 6
- 128
- 1
- [product_views]
- 4
- 183
- 2
- [product_views]
- 2
- 105
- 3
- [product_views]
100.000 ₫
- 1
- 450
- 4
- [product_views]
100.000 ₫
- 0
- 421
- 5
- [product_views]
100.000 ₫
- 4
- 444
- 6
- [product_views]
100.000 ₫
- 5
- 587
- 7
- [product_views]
100.000 ₫
- 6
- 415
- 8
- [product_views]
100.000 ₫
- 4
- 557
- 9
- [product_views]
100.000 ₫
- 2
- 453
- 10
- [product_views]