SKKN Phương pháp tổ chức học sinh làm việc độc lập nhằm nâng cao hiệu quả dạy học, đặc biệt trong giai đoạn Covid-19
- Mã tài liệu: MP0659 Copy
Môn: | Hóa học |
Lớp: | 11 |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 294 |
Lượt tải: | 5 |
Số trang: | 58 |
Tác giả: | Nguyễn Thị Hồng Hoa |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | THPT Cờ Đỏ |
Năm viết: | 2021-2022 |
Số trang: | 58 |
Tác giả: | Nguyễn Thị Hồng Hoa |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | THPT Cờ Đỏ |
Năm viết: | 2021-2022 |
Đề tài đã xây dựng được phương pháp tổ chức học sinh làm việc độc lập mang tính mới mẻ khi sử dụng mô hình Lớp học đảo ngược và kết hợp giữa làm việc cá nhân với làm việc nhóm. Phương pháp vừa giúp học sinh hình thành và phát triển kĩ năng làm việc độc lập, vừa góp phần nâng cao hiệu quả quá trình dạy học hóa học ở trường THPT.
Những nghiên cứu về làm việc độc lập, đặc biệt trong lĩnh vực dạy học hóa học hiện nay còn rất ít. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đã làm rõ những vấn đề lý luận và đưa ra quan điểm riêng về làm việc độc lập cũng như khái niệm tự học. Như vậy, có thể nói rằng, đề tài của chúng tôi góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý luận dạy học nói chung và dạy học hóa học nói riêng.
Mô tả sản phẩm
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
I.1. Lí do chọn đề tài
Nền giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đang thực hiện mục tiêu cải cách và đổi mới một cách toàn diện theo hướng phát huy tính tích cực, độc lập và sáng tạo của học sinh. Trong xu thế toàn cầu hóa, quá trình dạy học trong các trường trung học đang tồn tại mâu thuẫn giữa một bên là khối lượng tri thức ngày càng tăng, một bên là thời lượng dành cho học tập có hạn, vì vậy rèn luyện cho học sinh kĩ năng làm việc độc lập cũng như bồi dưỡng ý thức tự học là một nhu cầu tất yếu trong nhà trường.
Các nghiên cứu về giáo dục cũng như thực tế đã chỉ ra rằng, nếu hoạt động độc lập của học sinh được tổ chức một cách hợp lý và khoa học thì sẽ hình thành ở học sinh kĩ năng tập trung và suy nghĩ độc lập, sự chú ý và yêu thích trong học tập. Nhà giáo dục Nhật Bản Tsunesaburo Makiguchi trong tác phẩm “Giáo dục cho cuộc sống sáng tạo” đã nhấn mạnh rằng: “Chuyển giao kiến thức đơn giản không bao giờ là mục tiêu của giáo dục. Giáo dục cần được xem xét là một quá trình giáo dục độc lập mà động lực của nó là khuyến khích người học tạo ra các giá trị cho hạnh phúc của bản thân và xã hội. Kết quả của quá trình giáo dục phụ thuộc vào sự nỗ lực của học sinh. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi các giáo viên phải hướng dẫn hiệu quả học sinh trong quá trình giáo dục, không chỉ đơn giản là truyền tải kiến thức” [4].
Khi đề cập đến vấn đề phát triển tính độc lập ở học sinh, chúng ta cần chú ý đến hai nhiệm vụ quan trọng có quan hệ mật thiết với nhau. Thứ nhất là nhiệm vụ hình thành ở học sinh đức tính tự lực trong quá trình lĩnh hội kiến thức và thứ hai là hướng dẫn học sinh sử dụng kiến thức của bản thân vào thực tiễn một cách độc lập. Như vậy, việc tổ chức cho học sinh làm việc độc lập có hiệu quả trong quá trình dạy học là một nhiệm vụ không dễ đối với mỗi giáo viên.
Mặt khác, trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 kéo dài, khi hình thức dạy học phải thay đổi liên tục để thích ứng với tình hình thực tế thì kĩ năng làm việc độc lập của học sinh lại càng đóng vai trò quan trọng. Đặc biệt khi dạy học trực tuyến, việc tổ chức tốt hoạt động tự làm việc sẽ làm giảm áp lực rất lớn cho cả giáo viên và học sinh, đồng thời nâng cao hiệu quả của quá trình học tập. Đó chính là những luận điểm quan trọng để chúng tôi chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình là “Phương pháp tổ chức học sinh làm việc độc lập nhằm nâng cao hiệu quả dạy học, đặc biệt trong giai đoạn Covid-19”.
I.2. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng phương pháp tổ chức hoạt động độc lập của học sinh phù hợp với các hình thức dạy học trực tiếp và trực tuyến nhằm nâng cao hiệu quả quá trình dạy học hóa học.
I.3. Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp tổ chức cho học sinh làm việc độc lập trong quá trình dạy học hóa học ở trường trung học phổ thông.
I.4. Nhiệm vụ nghiên cứu
– Đánh giá thực trạng hình thành và phát triển kĩ năng làm việc độc lập cho học sinh trong dạy học hóa học ở một số trường THPT hiện nay.
– Phân tích các tài liệu tâm lí học sư phạm liên quan đến khái niệm làm việc độc lập, tự học và phương pháp tổ chức hoạt động độc lập của học sinh.
– Xây dựng các hình thức và đề xuất phương pháp tổ chức học sinh làm việc độc lập trong dạy học hóa học phù hợp với hình thức dạy học trực tiếp và trực tuyến.
– Tiến hành thực nghiệm sư phạm để đánh giá tính hiệu quả của phương pháp được đề xuất.
I.5. Điểm mới của đề tài
Đề tài đã xây dựng được phương pháp tổ chức học sinh làm việc độc lập mang tính mới mẻ khi sử dụng mô hình Lớp học đảo ngược và kết hợp giữa làm việc cá nhân với làm việc nhóm. Phương pháp vừa giúp học sinh hình thành và phát triển kĩ năng làm việc độc lập, vừa góp phần nâng cao hiệu quả quá trình dạy học hóa học ở trường THPT.
Những nghiên cứu về làm việc độc lập, đặc biệt trong lĩnh vực dạy học hóa học hiện nay còn rất ít. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đã làm rõ những vấn đề lý luận và đưa ra quan điểm riêng về làm việc độc lập cũng như khái niệm tự học. Như vậy, có thể nói rằng, đề tài của chúng tôi góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý luận dạy học nói chung và dạy học hóa học nói riêng.
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
II.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
II.1.1. Cơ sở lý luận
Ngay từ thời cổ đại, nhiều nhà giáo dục lỗi lạc như Socrates (470 – 399 TCN), Khổng Tử (551 – 479 TCN) đã đề cập đến tầm quan trọng to lớn của việc phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
Từ thế kỉ 17 đến thế kỉ 19 nhiều nhà giáo dục lớn như J.A. Comensky (1592 – 1670); Jean – Jacques Rousseau (1712 – 1778); J.H. Pestalozzi (1746 – 1827); A.
Diesterweg (1790 – 1866) trong các công trình nghiên cứu của mình về giáo dục phát triển trí tuệ đều đặc biệt nhấn mạnh: Muốn phát triển trí tuệ bắt buộc người học phải phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo để tự mình giành lấy tri thức. Muốn vậy phải tăng cường khuyến khích người học tự khám phá, tự tìm tòi và suy nghĩ trong quá trình học tập.
Nhiều nhà giáo dục của thế kỷ XX đã đóng góp vào sự phát triển các khía cạnh khác nhau của khái niệm “làm việc độc lập” trong quá trình dạy học cho học sinh. Nhà tâm lý học người Mỹ Carl Roger trong tác phẩm “Phương pháp giảng dạy hiệu quả” đã trình bày chi tiết kết quả nghiên cứu các phương pháp hình thành kỹ năng làm việc độc lập của học sinh, như: Cung cấp tài liệu, dùng bảng giao ước, dạy học theo nhóm, hướng dẫn cho người học cách nghiên cứu tài liệu, tự xem xét nguồn tài liệu, tự hoạch định mục tiêu, tự đánh giá việc học của mình, v.v.. [3].
Nhà giáo dục người Nga B.P. Esipov cũng đã có những đóng góp đáng kể trong nghiên cứu về vấn đề này [16]. Trong tác phẩm của mình, tác giả đã đưa ra định nghĩa về hoạt động độc lập của học sinh, nhấn mạnh vai trò và cách thức tổ chức hoạt động độc lập trong quá trình dạy học. Đặc biệt, B.P. Esipov đã nghiên cứu và mô tả đặc điểm của quá trình tổ chức học sinh làm việc độc lập khi tìm kiếm kiến thức mới cũng như củng cố kiến thức và hình thành kĩ năng. Theo đó, B.P. Esipov coi làm việc độc lập là một hoạt động nhận thức tích cực, được thực hiện theo hướng dẫn mà không có sự tham gia trực tiếp của giáo viên. Trong quá trình này, học sinh cần nỗ lực phấn đấu để đạt được mục tiêu nhận thức đã đặt ra. Bên cạnh đó, tác giả P.I. Pidkasisty [17] coi làm việc độc lập là phương tiện sư phạm cụ thể để tổ chức các hoạt động độc lập của học sinh trong quá trình giáo dục, đảm bảo sự hình thành và phát triển năng lực nhận thức của học sinh, tập trung vào quá trình tự giáo dục liên tục.
Theo nghiên cứu của chúng tôi, làm việc độc lập là quá trình học sinh thực hiện các hoạt động dưới sự hướng dẫn của giáo viên hoặc dưới bản hướng dẫn gồm các nhiệm vụ học tập đa dạng với mục đích nắm vững kiến thức, phát triển kĩ năng, lĩnh hội được kinh nghiệm hoạt động sáng tạo và trau dồi nhân cách, hành vi của bản thân.
Ngoài ra, một khái niệm mà chúng tôi cho rằng không thể tách rời khỏi phạm vi của vấn đề nghiên cứu, đó là khái niệm Tính độc lập nhận thức. Tính độc lập nhận thức chính là yếu tố quyết định khả năng chuyển từ làm việc độc lập sang tự học của học sinh. Khái niệm Tính độc lập nhận thức của học sinh được xác định bởi hai khía cạnh: thứ nhất là tính độc lập trong việc nắm vững kiến thức và thứ hai là tính độc lập trong việc lựa chọn phương pháp giải quyết các nhiệm vụ nhận thức.
Sharma R. C. và Ahmed R. (1986) [15, tr.10] đã khẳng định: Người ta có thể dạy phương pháp cho học sinh bằng nhiều hình thức khác nhau tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh, tuỳ theo tính chất đặc thù môn học và nội dung yêu cầu của bài học. Dạy phương pháp cho học sinh phải thực hiện theo 3 giai đoạn sau: (1) GV thiết kế bài tập, chỉ dẫn cụ thể những gì học sinh phải làm để hoàn thành bài tập. (2) GV tổ chức cho học sinh tự nghiên cứu với sự hỗ trợ của những thông tin có sẵn. (3) GV làm việc với học sinh trên lớp theo hình thức cá nhân hay tập thể.
Theo các tác giả Brow (1994), Weinet (1983) và Helmke (1995), việc học tập và rèn luyện của người học phụ thuộc vào những điều kiện như: Nguồn tri thức vốn có; tạo tình huống học tập, rèn luyện; làm xuất hiện, phát huy yếu tố chủ động, tự giác, tích cực. Như Weinet đã viết: Tính hiệu quả (của việc học tập) hầu như phụ thuộc vào người học và sự khác biệt cá nhân của họ [12, tr. 132].
Petrôvxki A. V. (1982) trong cuốn Tâm lý học lứa tuổi và sư phạm đã nghiên cứu những mức độ của hoạt động học như: Mức độ nhận thức của việc học, mức độ trí tuệ của việc học, tính chất nhiều mức độ của việc học. Từ những mức độ đó cho thấy hoạt động học đòi hỏi phải có tính tự giác và độc lập cao. Để hoạt động học đạt kết quả thì học sinh phải tự học [11, tr. 55].
Theo Chris Jarvis (2000) [14, tr. 16], để việc học thực sự là của người học thì phải thực hiện các nguyên tắc sau: Người học chịu trách nhiệm về việc học; nghĩ, làm, xem xét lại, phát hiện lại, trải nghiệm; thu liên hệ ngược từ người khác; xây dựng tiêu chuẩn và mục tiêu cho sự phân tích có cơ sở; luyện tập kĩ năng cần thiết; đảm bảo sự đánh giá có tác dụng hỗ trợ cho việc học; gắn hoạt động học tập với kết quả mình mong muốn; nhận biết sự cố gắng, tự tin, nhu cầu thời gian.
Đồng thời tác giả cũng đưa ra các kĩ năng tự học cần cho việc học có hiệu quả như: ghi chép, nghiên cứu, học nhóm, sử dụng tư liệu học qua bài giảng, viết báo cáo, seminar đọc nhanh, nghiên cứu trường hợp, trình bày, phỏng vấn. Tuy tác giả chưa đi sâu nghiên cứu cụ thể kĩ năng tự học nhưng nguyên tắc mà tác giả đưa ra đã làm toát lên ý nghĩa sâu xa: Hoạt động học tập thực sự đạt kết quả cao phải là hoạt động tự học, người học tự giác, tích cực, tự lập, sáng tạo trong quá trình làm việc với sách vở, tài liệu học tập. Đây là cơ sở để mở ra một hướng nghiên cứu sâu về kĩ năng tự học trong hoạt động học tập của học sinh.
Ở Việt Nam, vấn đề tự học thực sự được phát động nghiên cứu nghiêm túc, rộng rãi từ khi nền giáo dục cách mạng ra đời (1945), mà chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là người khởi xướng, vừa là tấm gương về tinh thần và phương pháp tự học. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định phương pháp dạy và học có hiệu quả nhất là phải có tính sáng tạo, biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo, đòi hỏi cả người dạy và người học phải áp dụng vào thực tế một cách linh hoạt. Phải lấy tự học làm nòng cốt, phải nâng cao hướng dẫn việc tự học, phát huy tính tích cực, chủ động của người học. Có thể nói tự học là một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh về phương pháp học tập. Những lời chỉ dẫn quý báu và những bài học kinh nghiệm sâu sắc rút ra từ chính tấm gương tự học bền bỉ và thành công của Người cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn là một trong những nhà nghiên cứu về tự học nổi bật nhất. Hàng loạt cuốn sách, công trình nghiên cứu của ông đã ra đời để thuyết phục giáo viên ở các cấp học, bậc học thay đổi cách dạy của mình nhằm phát triển khả năng tự học cho học sinh ở mức độ tối đa, như: “Xã hội học tập – học suốt đời và các kĩ năng tự học” [5], “Quá trình dạy tự học” [6], “Học và dạy cách học” [7]. Trong tác phẩm: “Học và dạy cách học” ông đã đề cập đến vai trò của người học, người dạy và mô hình tự học. Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng “Cốt lõi của học là tự học. Hễ có học là có tự học, vì không ai có thể học hộ người khác được. Nhiệm vụ của chúng ta là biến quá trình dạy học thành quá trình tự học, tức là khéo léo kết hợp quá trình dạy học của thầy với quá trình tự học của trò thành một quá trình thống nhất biện chứng” [7, tr.60-66].
Tác giả Lê Khánh Bằng [8] cho rằng để phát huy tính tích cực trong học tập, người học phải đảm nhận một phần trách nhiệm về quá trình học tập của mình bằng cách đề xuất và thảo luận với giáo viên. Đồng thời người học phải rèn luyện các kĩ năng cơ bản như: kĩ năng định hướng, kĩ năng thiết kế, kĩ năng thực hiện kế hoạch, kĩ năng tự kiểm tra, tự đánh giá quá trình học tập của bản thân. Biện pháp để hình thành kĩ năng tự học cho học sinh là giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học, chuyển từ phương pháp dạy học hướng vào hoạt động của giáo viên sang phương pháp dạy học hướng vào hoạt động của học sinh.
Các tác giả Nguyễn Cảnh Toàn, Lê Khánh Bằng, Lê Đình Trung [8, tr. 59], đã đưa ra khái niệm tự học như sau: Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, phân tích, so sánh, tổng hợp…) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình rồi cả động cơ tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng ham mê khoa học…) để chiếm lĩnh một lĩnh vực nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình.
Theo tác giả Lưu Xuân Mới: Tự học là hình thức hoạt động nhận thức của cá nhân nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kỹ năng do chính sinh viên tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, theo hoặc không theo chương trình và sách giáo khoa đã được quy định [2, tr. 276].
Tác giả Nguyễn Hiến Lê đã đưa ra cách hiểu: Tự học là không ai bắt buộc mà tự mình tìm tòi, học hỏi để hiểu biết thêm. Có thầy hay không, ta không cần biết. Người tự học hoàn toàn làm chủ mình, muốn học môn nào tuỳ ý, muốn học lúc nào cũng được, đó mới là điều kiện quan trọng [1, tr. 12].
Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, tự học là hoạt động học tập và nhận thức có hệ thống, có mục đích rõ rệt của học sinh nhằm giải quyết các nhiệm vụ nhận thức một cách độc lập bằng các phương tiện được lựa chọn độc lập với mục đích hình thành và phát triển kiến thức, kĩ năng của cá nhân dưới sự điều chỉnh của giáo viên. Trong cấu trúc của tự học gồm ba thành phần cơ bản sau:
1) Thành phần động lực – đó chính là nhu cầu bên trong của mỗi học sinh trong việc chiếm lĩnh kiến thức mới và hiểu sự cần thiết của việc hoàn thiện kiến thức thông qua quá trình nhận thức có hệ thống.
2) Thành phần nhận thức – là những kiến thức, kĩ năng về môn học được cá nhân lĩnh hội và khả năng áp dụng kiến thức đó trong việc giải quyết các vấn đề nhận thức.
3) Thành phần tổ chức – bao gồm tổ chức quá trình tự học dựa trên cơ sở làm việc với các nguồn thông tin (tài liệu giấy, thông tin tìm kiếm trên mạng, v.v…), lập kế hoạch hoạt động, tự kiểm tra, tự đánh giá và tự phân tích kết quả của công việc.
II.1.2. Cơ sở thực tiễn
Để xây dựng cơ sở thực tiễn cho đề tài, chúng tôi đã tiến hành một cuộc khảo sát liên quan đến thực trạng tự học, kĩ năng làm việc độc lập của học sinh và thực trạng hoạt động dạy học của giáo viên theo hướng phát triển kĩ năng làm việc độc lập cho học sinh. Khảo sát được tiến hành dưới cả hai hình thức: phát phiếu trực tiếp và làm khảo sát qua Google.
Chúng tôi đã sử dụng 8 câu hỏi dành cho học sinh [Phụ lục 1] và 5 câu hỏi dành cho giáo viên [Phụ lục 2]. Kết quả nhận được 754 phiếu trả lời của học sinh và 106 phiếu từ giáo viên ở các trường thuộc khu vực Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Quảng Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, v.v…
Qua tổng hợp điều tra chúng tôi thấy đa số HS nhận thấy việc rèn luyện kĩ năng làm việc độc lập cũng như kĩ năng tự học là cần thiết (20%) và rất cần thiết (75,1%), một tỷ lệ nhỏ HS (4,9%) cho rằng điều này là bình thường hoặc không cần thiết. Theo chúng tôi điều này là hợp lý vì với lượng kiến thức ngày càng tăng thì ý thức tự làm việc để nắm vững kiến thức và đạt được mục đích học tập của cá nhân là điều rất cần thiết. Kết quả chúng tôi thu được cũng tương tự khi đánh giá ý kiến của GV về tầm quan trọng và tác dụng của việc phát triển kĩ năng làm việc độc lập và tự học cho HS.
Hình 1. Biểu đồ ý kiến của giáo viên về tầm quan trọng của kĩ năng làm việc độc lập đối với học sinh
Nhận thức về tác dụng của tự học và tự làm việc sẽ định hướng cho tổ chức hoạt động học của GV, câu hỏi đặt ra là: Thầy/Cô hãy cho biết ý kiến về những ý nghĩa của làm việc độc lập đối với HS? [Phụ lục 2]. Chúng tôi đã đưa ra 10 yếu tố nêu lên ý nghĩa của làm việc độc lập để GV lựa chọn.
Kết quả khảo sát cho thấy GV nhận thức đúng về tác dụng và ý nghĩa của làm việc độc lập, như: Giúp HS củng cố, ghi nhớ vững chắc kiến thức (100%), giúp HS hiểu sâu bài và nắm chắc kiến thức (100%), giúp HS vận dụng kiến thức vào giải quyết những nhiệm vụ học tập mới (100%), giúp HS đạt kết quả cao trong kiểm tra và thi (100%), giúp HS mở rộng kiến thức (95,2%), giúp HS có khả năng tự đánh giá bản thân (76%); giúp HS rèn luyện tính tích cực độc lập trong học tập (100%); giúp HS hình thành ý thức kỉ luật (84,6%); giúp HS hình thành nề nếp làm việc khoa học (86,5%); giúp HS vững vàng tự tin trong việc giải quyết các vấn đề nảy sinh trong học tập và đời sống hàng ngày (91,3%).
Kết quả nhận thức của học sinh về ý nghĩa của làm việc độc lập cũng tương tự:
Bảng 1. Nhận thức của học sinh về ý nghĩa của làm việc độc lập
TT Vai trò và tác dụng của làm việc độc lập Ý kiến
Đồng ý (%) Không đồng ý (%)
1 Giúp HS củng cố, ghi nhớ vững chắc kiến thức 89,9 10,1
2 Giúp HS hiểu sâu bài và nắm chắc kiến thức 92,8 7,2
3 Giúp HS vận dụng kiến thức vào giải quyết những nhiệm vụ học tập mới 89,5 10,5
4 Giúp HS đạt kết quả cao trong kiểm tra và thi 88,9 11,1
5 Giúp HS mở rộng kiến thức 95,5 4,5
6 Giúp HS có khả năng tự đánh giá bản thân 80,0 20,0
7 Giúp HS rèn luyện tính tích cực, độc lập trong học tập 90,1 9,9
8 Giúp HS hình thành ý thức kỷ luật 74,9 25,1
9 Giúp HS hình thành nề nếp làm việc khoa học 75,3 24,7
10 Giúp HS vững vàng tự tin trong việc giải quyết các vấn đề nảy sinh trong học tập và đời sống hàng ngày 72,0 28,0
Để tìm hiểu thực trạng phương pháp tự học được HS sử dụng, chúng tôi đưa ra 8 phương pháp với 3 mức độ thực hiện: Thường xuyên, thỉnh thoảng, không bao giờ.
Qua điều tra có bảng tổng hợp kết quả như sau
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 6
- 128
- 1
- [product_views]
- 4
- 183
- 2
- [product_views]
- 2
- 105
- 3
- [product_views]
100.000 ₫
- 1
- 450
- 4
- [product_views]
100.000 ₫
- 0
- 421
- 5
- [product_views]
100.000 ₫
- 4
- 444
- 6
- [product_views]
100.000 ₫
- 5
- 587
- 7
- [product_views]
100.000 ₫
- 6
- 415
- 8
- [product_views]
100.000 ₫
- 4
- 557
- 9
- [product_views]
100.000 ₫
- 2
- 453
- 10
- [product_views]