SKKN Tổ chức một số dự án dạy học chương động lực học – vật lí 10 – nhằm gắn hoạt động dạy học với công tác hướng nghiệp
- Mã tài liệu: MP0568 Copy
Môn: | Vật lí |
Lớp: | 10 |
Bộ sách: | Kết nối tri thức với cuộc sống |
Lượt xem: | 720 |
Lượt tải: | 10 |
Số trang: | 66 |
Tác giả: | Đặng Thị Thu Phương |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | THPT Nguyễn Đức Mậu |
Năm viết: | 2020-2021 |
Số trang: | 66 |
Tác giả: | Đặng Thị Thu Phương |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | THPT Nguyễn Đức Mậu |
Năm viết: | 2020-2021 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Tổ chức một số dự án dạy học chương động lực học – vật lí 10 – nhằm gắn hoạt động dạy học với công tác hướng nghiệp“ triển khai các biện pháp như sau:
1.Tổ chức dạy học dự án 1: Lực ma sát và những ngành nghề ở địa phương em (bài lực ma sát)
1.1.Xác định vấn đề cần giải quyết
1.2.Những công việc chuẩn bị cho phương án tổ chức dạy học
1.3.Kế hoạch dạy học của dự án
2.Tổ chức dạy học dự án 2
2.1.Xác định vấn đề cần giải quyết
2.2.Những công việc chuẩn bị cho phương án tổ chức dạy học
2.3.Kế hoạch dạy học của dự án.
Mô tả sản phẩm
A. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài.
Mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông 2018 đã chỉ rõ: “Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động” .
Để đáp ứng những mục tiêu trên, giáo dục phải đổi mới toàn bộ quá trình dạy học với những thành tố của nó: nội dung, phương pháp, phương tiện, cách thức kiểm tra, đánh giá… Sự đổi mới phải làm cho quá trình dạy học vừa đảm bảo tính khoa học vừa đảm bảo phát huy tính tích cực, tự chủ, sáng tạo của học sinh (HS) đồng thời bước đầu trang bị cho các em những nhận thức đúng đắn về các ngành nghề trong xã hội.
Việc dạy học vật lí ở bậc trung học phổ thông cũng không nằm ngoài xu hướng chung đó. Với tư cách một môn khoa học thực nghiệm, vật lí không thể tách rời thực tế cuộc sống. Tuy nhiên, việc dạy và học ở nhiều trường phổ thông còn chịu tác động nặng nề bởi mục tiêu thi cử, do đó vẫn chủ yếu là truyền thụ kiến thức, kĩ năng để làm bài kiểm tra, mang nặng tính lí thuyết, xa rời thực tiễn người học đang sống, không khuyến khích tìm tòi, ít rèn luyện cho học sinh cách học, cách suy nghĩ, độc lập, sáng tạo giải quyết vấn đề.
Ngoài việc giúp trang bị những kiến thức, kĩ năng cần thiết để vượt qua các bài kiểm tra, các kỳ thi thì dạy học vật lí cần phải đóng vai trò quan trọng trong việc bồi dưỡng tình yêu lao động và lòng say mê công việc, giúp học sinh định hướng nghề nghiệp phù hợp với sở thích và năng lực bản thân. Tích hợp nội dung hướng nghiệp vào các môn học là một trong các hình thức giáo dục hướng nghiệp (GDHN) ở trường phổ thông, song chưa thực sự hiệu quả, cũng như chưa gắn được những nội dung kiến thức trong chương trình học với những nghề nghiệp học sinh lựa chọn. Chúng ta thường tách rời các môn học với giáo dục hướng nghiệp, giáo viên bộ môn thường chú trọng đến sự phát triển kiến thức, kỹ năng của môn học đó để làm bài kiểm tra còn giáo dục hướng nghiệp được triển khai một cách riêng biệt do giáo viên chủ nhiệm hoặc nhóm giáo viên được phân công phụ trách thực hiện. Tuy nhiên vật lí là môn học gắn liền với đời sống và khoa học kỹ thuật. Nó hàm chứa thông tin nghề nghiệp rất lớn vì thế trong quá trình dạy học vật lí nếu chúng ta kết hợp được kiến thức môn học và hướng nghiệp, học sinh sẽ hiểu thêm về cuộc sống, về khoa học kỹ thuật và từ đó học sẽ yêu thích môn học, đam mê và có định hướng đúng đắn trong lựa chọn nghề nghiệp.
Chính vì vậy chúng tôi chọn đề tài “Tổ chức một số dự án dạy học chương động lực học – vật lí 10 – nhằm gắn hoạt động dạy học với công tác hướng nghiệp”.
II. Mục đích nghiên cứu
Thông qua các nội dung dạy học, các hoạt động tham quan thực tế, trò chơi để giúp học sinh nắm vững kiến thức, phát triển năng lực giải quyết vấn đề, rèn luyện các kĩ năng sống, tạo hứng thú học tập, làm việc, tìm hiểu các ngành nghề trong xã hội, bước đầu cải thiện nhận thức nghề nghiệp.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
– Nghiên cứu lí luận dạy học về dạy học dự án (DHDA).
– Nội dung kiến thức chương động lực học thuộc Vật lí 10 THPT liên quan đến công tác hướng nghiệp.
– Nghiên cứu chương trình giáo dục hướng nghiệp cho học sinh THPT theo chương trình 2018.
– Nghiên cứu hoạt động dạy của giáo viên (GV) và hoạt động học của học sinh THPT gắn với công tác hướng nghiệp.
– Một số ngành nghề liên quan đến nội dung kiến thức phần cơ như công nghệ mài, vật lí trị liệu, bảo dưỡng và sửa chữa thay thế phanh ô tô, xây dựng, lực cản và lực nâng…
IV. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài này được thực hiện dựa trên một số phương pháp nghiên cứu khoa học cơ bản sau:
– Phương pháp nghiên cứu lí luận.
– Phương pháp nghiên cứu thực tiễn (quan sát, điều tra).
– Phương pháp thực nghiệm sư phạm để đánh giá hiệu quả của đề tài.
V. Đóng góp của sáng kiến
1. Về lí luận:
– Làm sáng tỏ cơ sở lí luận về dạy học dự án, vai trò của giáo dục hướng nghiệp trong chương trình giáo dục phổ thông 2018.
– Đưa ra được quy trình xây dựng một dự án dạy học và các bước thiết kế tiến trình dạy gắn với công tác hướng nghiệp.
2. Về thực tiễn:
– Dựa trên lí luận dạy học về dạy học dự án chúng tôi đã thiết kế và tổ chức được một số dự án dạy học phát huy tốt tính tích cực chủ động của học sinh trong nghiên cứu kiến thức bài học liên qua đến nghề nghiệp.
– Việc gắn liền hoạt động dạy học với giáo dục hướng nghiệp thúc đẩy học sinh tự tìm hiểu các nghề nghiệp liên quan đến kiến thức bài học, góp phần định hướng sớm công tác hướng nghiệp cho học sinh để học sinh nhận thấy được sở thích, năng khiếu của mình phù hợp với nghề nghiệp gì. Từ đó có lựa chọn nghề nghiệp chính xác góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội.
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lí luận
1.1. Dạy học dự án.
1.1.1. Dạy học dự án là gì?
Dạy học dự án là một trong những kiểu tổ chức dạy học nhấn mạnh việc kết hợp kiến thức với thực tiễn. Với dạy học dự án, người học phát huy vai trò tự lực của mình trong việc giải quyết một nhiệm vụ gắn với thực tiễn, qua đó họ vận dụng kiến thức và phát triển các kĩ năng cần thiết cho cuộc sống. Dạy học dự án không chỉ tạo ra một môi trường học tập, khám phá đầy hứng thú mà đi kèm với nó còn là hình thức kiểm tra đánh giá toàn diện, bao gồm đánh giá kết quả và đánh giá quá trình, đánh giá của GV và tự đánh giá của HS. Với những đặc điểm đó, dạy học dự án là một trong các phương pháp dạy học (PPDH) có thể đáp ứng tốt mục tiêu đổi mới.
1.1.2. Dạy học dự án phát huy tính tích cực của học sinh như thế nào?
Để tìm hiểu dạy học dự án phát huy tính tích cực của học sinh như thế nào chứng ta nghiên cứu một số đặc điểm của dạy học dự án sau:
1.1.2.1. Mục tiêu của dạy học dự án
Hướng tới phát triển kỹ năng tư duy bậc cao (phân tích- tổng hợp, đánh giá và sáng tạo). Quá trình thực hiện các nhiệm vụ học tập cùng một lúc với việc tìm kiếm thông tin (trong đó có nội dung bài học) là quá trình xử lí thông tin, lập ra một tổng thể kiến thức mới khác với nội dung bài học, phê phán đánh giá, lựa chọn công cụ (kiến thức, công nghệ…) để thực hiện nhiệm vụ học tập đòi hỏi HS phải có tư duy tổng hợp, biết vận dụng một cách sáng tạo giải quyết vấn đề thực tiễn trong dự án học tập.Hợp tác, giao tiếp, quản lý, tổ chức, điều hành, ra quyết định, tích hợp công nghệ vào giải quyết công việc và thực hiện các sản phẩm, … là những mục tiêu mà các phương pháp dạy học tích cực hướng tới. DHDA có ưu thế đặc biệt trong việc thực hiện các mục tiêu này: Quá trình thực hiện dự án HS toàn quyền quyết định phương tiện, cách thức thực hiện, phải hợp tác cao độ các thành viên trong nhóm trong sự hiểu biết điểm mạnh, điểm yếu của từng thành viên; phải biết tranh luận và biết lắng nghe, phải biết tự kiểm tra, đánh giá và tự điều chỉnh hoạt động, phải huy động tối đa công nghệ vào sản phẩm học tập của nhóm.
1.1.2.2. Vai trò của giáo viên và học sinh trong dạy học dự án.
Trong dạy học dự án, giáo viên không còn là người chiếm giữ kiến thức và truyền tải kiến thức đến học sinh mà là người trung gian mang đến cho học sinh những sự hỗ trợ khi cần như các nguồn thông tin, các phương tiện, Giáo
viên còn là người đồng hành của các nhóm dự án, giúp đỡ các nhóm giải quyết các vấn đề khó khăn, thảo luận với các nhóm về phương pháp làm việc và động viên; khích lệ các nhóm. Như một đạo diễn, giáo viên tổ chức các hoạt động học tập cần thiết cho việc thực hiện dự án của học sinh. Như một nhạc trưởng, giáo viên điều khiển và định hướng các hoạt động học tập của học sinh để đảm bảo dự án đi đến thành công. Dưới sự hỗ trợ của giáo viên, học sinh tham gia tích cực và chủ động vào rất nhiều hoạt động học tập khác nhau trong suốt quá trình dự án. Họ tự đề xuất các vấn đề nghiên cứu, tự tổ chức công việc và các hoạt động học tập: tìm kiếm thông tin; khai thác các công cụ; chế tạo sản phẩm, tự đánh giá bản thân và tham gia đánh giá bạn bè trong dự án, và qua đó tự xây
dựng cho mình các kiến thức và năng lực bổ ích. Trong dạy học dự án, học sinh không còn là những con rối hoạt động thụ động theo sự điều khiển của giáo viên mà thực sự trở thành tác giả của việc học tập của họ.
1.1.2.3. Đặc điểm của dạy học dự án.
Phương pháp dạy học theo dự án có ba đặc điểm cơ bản sau:
+ Định hướng học sinh: Trong PPDH theo dự án, HS tham gia tích cực và tự lực vào quá trình dạy học. Điều đó cũng đòi hỏi và khuyến khích tính trách nhiệm và sáng tạo của người học. GV chủ yếu đóng vai trò tư vấn, giúp đỡ. Tuy nhiên mức độ tham gia cần phù hợp với kinh nghiệm và khả năng của HS và mức độ khó khăn của nhiệm vụ. Sử dụng PPDH này cần chú ý đến hứng thú của HS: HS được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân. Hứng thú của các em cũng cần được tiếp tục phát triển trong quá trình thực hiện dự án. Trong khi xây dựng và thực hiện dự án còn cần có sự hợp tác làm việc theo nhóm. PPDH dự án đòi hỏi và rèn luyện tinh sẵn sàng và kỹ năng hợp tác của HS.
+ Định hướng thực tiễn: PPDH theo dự án kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, vận dụng lý thuyết vào thực tiễn. Chủ đề của dự án xuất phát từ những tình huống thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp cũng như thực tiễn đời sống. Nhiệm vụ của dự án cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả năng của HS. Các dự án học tập gắn việc học tập trong nhà trường với thực tiễn đời sống xã hội. Trong những trường hợp lý tưởng, việc thực hiện các dự án có thể mang lại những tác động xã hội tích cực.
+ Định hướng sản phẩm: Trong quá trình thực hiện dự án các sản phẩm được tạo ra. Trong PPDH theo dự án, các sản phẩm được tạo ra không giới hạn trong những thu hoạch từ lý thuyết mà còn tạo ra những sản phẩm vật chất của hoạt động thực tiễn thực hành. Những sản phẩm này có thể sử dụng, công bố, giới thiệu.
1.1.2.4. Phân loại dự án
a) Phân loại theo qui mô.
– Dự án nhỏ: thực hiện trong một hoặc một số giờ học
– Dự án trung bình: thực hiện trong một số ngày/một tuần
– Dự án lớn: thực hiện với thời gian lớn, tối thiểu là một tuần, có thể kéo dài trong nhiều tuần.
b) Phân loại theo chuyên môn
– Dự án trong một môn học:
– Dự án liên môn:
– Dự án ngoài chuyên môn: Là dự án cho các lễ hội trong trường.
– Dự án cho nhóm HS, dự án cá nhân. Là dự án toàn trường, dự án cho một khối lớp, một lớp học.
– Dự án hướng dẫn của một GV, dự án với sự cộng tác của nhiều GV và chuyên gia.
1.1.2.5. Quy trình dạy học theo dự án
Dạy học dự án được thực hiện gồm 6 bước: Lựa chọn chủ đề, lập kế hoạch, thu thập thông tin, xử lí thông tin, báo cáo kết quả, đánh giá.
Để thuận lợi trong việc tổ chức các hoạt động dạy học, 6 bước trên được gói lại thành 3 bước chính:
* Bước 1: Lập kế hoạch
Đây là bước đầu tiên và có ý nghĩa quan trọng trong DHDA, GV cần tổ chức cho HS cùng tham gia vào các hoạt động:
– Lựa chọn chủ đề dự án: được khởi đầu bằng một ý tưởng, liên quan với nội dung học tập, gắn với thực tiễn. GV và HS cùng đề xuất xác định đề tài, chú ý đến những chủ đề liên hệ với thực tiễn gây được hứng thú và sự quan tâm của HS.
– Xây dựng tiểu chủ đề: từ các chủ đề lớn, GV hướng dẫn HS phát triển tìm các
chủ đề nhỏ (tiểu chủ đề). Đây là các vấn đề nghiên cứu cụ thể. GV có thể sử dụng sơ đồ tư duy để hướng dẫn HS xác định lựa chọn ý tưởng cũng như những vấn đề cần giải quyết xung quanh dự án. HS lựa chọn tiểu chủ đề theo sở thích và thành lập nhóm nghiên cứu theo chủ đề.
– Lập kế hoạch: Từ các chủ đề, tiểu chủ đề đã chọn HS thảo luận nhóm để lập kế hoạch dự án. HS sử dụng sơ đồ tư duy để lập kế hoạch:
+ Xác định các vấn đề nghiên cứu liên quan đến chủ đề nhằm tìm câu trả lời cho câu hỏi nghiên cứu (câu hỏi nội dung, câu hỏi bài học).
+ Xác định quy mô và mục tiêu của chủ đề, các nhiệm vụ cần thực hiện để đạt được mục tiêu đề ra.
+ Phân công công việc cho các thành viên trong nhóm và thời hạn hoàn thành.
Xác định phương tiện và dự kiến sản phẩm của dự án, sau đó các nhóm nộp kế hoạch thực hiện dự án.
Sau khi lập kế hoạch thực hiện dự án, các nhóm cử đại diện trình bày, các nhóm khác và GV bổ sung, HS chỉnh sửa hoàn thiện kế hoạch thực hiện dự án. GV theo dõi và hướng dẫn HS thực hiện dự án, tổng hợp kết quả, trình bày báo cáo, đánh giá rút kinh nghiệm.
* Bước 2: Thực hiện dự án
Các nhóm HS tiến hành các hoạt động theo kế hoạch:
– Thu thập thông tin và thực hiện điều tra: HS thu thập thông tin qua phỏng vấn, chụp ảnh, báo chí, mạng internet và thường xuyên trao đổi với nhau để cùng phối hợp, hỗ trợ nhau khi cần để trả lời cho các câu hỏi trong dự án.
– Xử lí thông tin: HS xử lí các dữ liệu thu thập được, có thể dùng biểu đồ, đồ thị để mô tả, giải thích các dữ liệu, đưa ra những nhận xét. Các nhóm cần thường xuyên trao đổi, xin ý kiến tham vấn của giáo viên.
* Bước 3: Báo cáo, đánh giá
Các nhóm tổng hợp các kết quả thu thập từ các thành viên trong nhóm để có cái nhìn toàn cảnh về những gì khám phá được.
– Từ kết quả thu được các nhóm thảo luận xây dựng sản phẩm. Sản phẩm cuối cùng được trình bày dưới nhiều dạng khác nhau: bài thuyết trình, biểu diễn (đóng kịch, hát, thơ…), trưng bày triển lãm (tranh ảnh, báo tường, mô hình…), powerpoint…
– Trình bày báo cáo kết quả: các nhóm phân công các thành viên tham gia trình bày báo cáo theo hình thức đã chọn. Sản phẩm của dự án có thể được trình bày trong lớp, có thể giới thiệu trước toàn trường, hoặc ngoài xã hội…
– Đánh giá rút kinh nghiệm: sau khi trình bày sản phẩm dự án, các nhóm sẽ đánh giá kết quả của nhau và nhìn lại quá trình thực hiện dự án. Việc đánh giá dự án tập trung vào các vấn đề:
+ Mục tiêu học tập đặt ra của dự án đã đạt được hay chưa?
+ Sản phẩm của dự án có dùng được hay không? Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của sản phẩm đó?
+ Thời gian thực hiện dự án? Những khó khăn, thuận lợi trong quá trình thực hiện dự án.
+ Tinh thần thái độ làm việc của các thành viên, sự phối hợp của các thành viên trong nhóm.
+ Những kinh nghiệm cho việc phát triển dự án hoặc thực hiện dự án tiếp theo. Các nhóm tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau, GV đánh giá cuối cùng về kết quả của dự án và quá trình thực hiện dự án của các nhóm, các thành viên. Như vậy trong quá trình thực hiện dự án, GV cần theo dõi, hướng dẫn HS cụ thể về các kĩ năng xã hội (giao tiếp, hợp tác), kĩ năng lập phiếu phỏng vấn, thống kê, làm thực nghiệm, thu thập xử lí thông tin, tổng hợp và trình bày báo cáo.
1.1.2.6. Ưu điểm và nhược điểm của dạy học dự án
Theo đánh giá chung, DHDA có những ưu điểm nổi trội sau: Gắn lý thuyết và thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội; kích thích động cơ và hứng thú cho người học; phát huy tính tự lực và tính trách nhiệm; phát triển khả năng sáng tạo; rèn luyện khả năng giải quyết những vấn đề phức hợp; rèn luyện tính bền bỉ và kiên nhẫn; rèn luyện năng lực cộng tác làm việc; rèn luyện năng lực đánh giá.
Đặc biệt, ưu điểm nổi bật nhất của DHDA là tập trung vào một câu hỏi lớn hoặc một vấn đề quan trọng có thể có nhiều quan điểm liên quan tới nhiều bộ môn khác nhau. Đây còn là cơ hội đưa ra sáng kiến và thực hiện nhiều hoạt động khác nhau dựa trên các thông tin có thể tiếp cận được, đòi hỏi thực hiện trong một thời gian nhất định nhằm phát huy sự hợp tác.
Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là DHDA không có những nhược điểm. Thực tiễn cho thấy, DHDA không phù hợp trong việc truyền thụ kiến thức lý thuyết mang tính hệ thống cũng như rèn luyện hệ thống kỹ năng cơ bản. Mặt khác, DHDA đòi hỏi nhiều thời gian vì vậy phương pháp dạynày không thể thay thế cho phương pháp thuyết trình và luyện tập mà là hình thức dạy học bổ sung cần thiết cho các phương pháp dạy học truyền thống. Về kinh tế, DHDA đòi hỏi phương tiện vật chất và tài chính phù hợp.
Tóm lại, DHDA là hình thức dạy học quan trọng để thực hiện quan điểm dạy học hiện đại như: Định hướng người học, định hướng hành động, dạy học giải quyết vấn đề và quan điểm dạy học tích hợp. Bên cạnh đó, DHDA góp phần gắn lý thuyết với thực tiễn, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội, tham gia vào việc đào tạo năng lực làm việc tự lực, năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp, tinh thần trách nhiệm và khả năng cộng tác làm việc của người học.
1.2. Dạy học hướng nghiệp theo chương trình 2018.
1.2.1. Hướng nghiệp là gì? Tại sao phải GDHN cho học sinh?
Theo Wikipedia: “Hướng nghiệp là các hoạt động nhằm hỗ trợ mọi cá nhân chọn lựa và phát triển chuyên môn nghề nghiệp phù hợp nhất với khả năng của cá nhân, đồng thời thỏa mãn nhu cầu nhân lực cho tất cả các lĩnh vực nghề nghiệp (thị trường lao động) ở cấp độ địa phương và quốc gia”.
Việc học sinh chọn được đúng nghề nghiệp và chọn đúng trường để học sẽ giúp các em có thể phát huy được tối đa những khả năng và điểm mạnh của bản thân, phát triển năng lực một cách tối đa và có nhiều cơ hội thăng tiến hơn trong công việc sau này. Chính vì lợi ích như vậy mà bất kỳ ai cũng có thể thấy được mặt tích cực của việc tư vấn định hướng nghề nghiệp. Việc tư vấn nghề nghiệp cho học sinh đúng đắn sẽ giúp cho thị trường lao động được cân bằng hơn, giảm tỷ lệ mất cân đối trong nhân lực, đồng thời sẽ giúp xã hội tránh được tình trạng thiếu hay khan hiếm nhân lực trong một số ngành hot hay ngành khó tuyển người.
Ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường bản thân các em phải biết mình thích điều gì, có điểm mạnh gì và điểm yếu như thế nào để có thể chọn được một nghề nghiệp hay công việc thật phù hợp trong tương lai. Để xác định được đúng nghề nghiệp tương lai các em cần được sự tư vấn từ phía thầy cô và nhà trường. Mỗi môn học có một đặc thù riêng và nó sẽ rèn luyện cho các em một số kĩ năng và hiểu biết về ngành nghề trong lương lai. Chính vì vậy trong quá trình giảng dạy giáo viên cần lồng vào vấn đề định hướng nghề nghiệp và phát triển kĩ năng cần thiết cho các em để các em không bỡ ngỡ khi bước lên bậc học cao hơn.
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 7
- 107
- 1
- [product_views]
100.000 ₫
- 1
- 477
- 2
- [product_views]
100.000 ₫
- 4
- 499
- 3
- [product_views]
100.000 ₫
- 6
- 535
- 4
- [product_views]
100.000 ₫
- 1
- 566
- 5
- [product_views]
100.000 ₫
- 2
- 422
- 6
- [product_views]
100.000 ₫
- 2
- 442
- 7
- [product_views]
100.000 ₫
- 8
- 578
- 8
- [product_views]
100.000 ₫
- 9
- 538
- 9
- [product_views]
100.000 ₫
- 6
- 389
- 10
- [product_views]